Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

TÌNH YÊU VÀ HẬN THÙ : CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI

Trong kho tàng triết học và huyền thoại Hy Lạp có vở bi hài kịch mang tên Antigónê (ντιγόνη, khoảng thế kỷ IV, tr. CN), Vốn là hai anh em nhà Œdipe δίπους), Eteoklếs (τεοκλς) và Poluneíkês (Πολυνείκης) đã chết cách bi thảm trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Dù là hai anh em cùng chung bụng mẹ sinh ra, nhưng mỗi người lại ở mỗi tuyến chiến khác nhau. Eteoklếs chiến đấu cho Kréôn (Κρέων) – vua thành Thíva (Θήβα) , còn người em thì ngược lại. Poluneíkês bị Kréôn kết án là thành phần phản loạn. Nhà vua ra sắc chỉ cấm cử hành nghi thức an táng thông thường cho Poluneíkês. Lệnh được thực hiện và thi thể của Poluneíkês nằm đó không được thương khóc, không được chôn cất, làm mồi cho chim đói. Thế nhưng, bất chấp lệnh cấm, Antigónê đã mạo hiểm sự sống mình khi trải một lớp cát lên thi thể của anh mình làm dấu chỉ của sự an táng. Cử chỉ can đảm và gây cảm xúc này kèm theo câu nói nổi tiếng của Antigónê với Kréôn: “Tôi sinh ra không phải để cho sự hận thù, nhưng cho tình yêu ”. Và câu nói đáp trả của Kréôn cũng đọng lại nơi tâm hồn khán giả cảm xúc rùng rợn : « Nếu bản chất của ngươi là sinh ra để yêu, thì hãy về nơi kể chết và yêu chúng !» Phải chăng, đối với Kréôn, thế giới tình yêu là thế giới của kẻ chết ?

Không chỉ có nơi truyền thống văn chương và triết học Hy Lạp cổ, đối với ai thừa hưởng và hiểu biết truyền thống Kinh Thánh đều nhận ra bi kịch giữa tình yêu và hận thù được diễn tả ngay từ trang đầu của cuốn Kinh Thánh. Sau khi được trao ban Evà – quà tặng tuyệt vời nhất của Đấng tạo hóa (vì trong số tạo vật được Thiên Chúa tạo nên “con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (x. St 2, 20), ngoại trừ Evà), Ađam thốt lên trong vui sướng : “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Thế nhưng, con rắn xuất hiện và bắt đầu gieo vào tâm tưởng con người ý tưởng thù địch với Đấng tạo hóa cách tinh ranh : “Rắn nói với người đàn bà : “Chẳng chết chóc gì đâu ! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ trở nên như những vị thần biết điều điều thiện điều ác” (x. St 3, 4-5). Con người nghĩ thầm điều con rắn nói có lý. Chúng ta biết đoạn kết của câu chuyện này như thế nào cũng như bi kịch tình yêu và hận thù khác còn kéo dài trong lịch sử Kinh Thánh giữa con người và Đấng tạo hóa và giữa con người với nhau.

Câu chuyện văn chương không phải vô cớ, nhưng nó chuyển tải cho chúng ta một phần kinh nghiệm hiện sinh con người, đặc biệt kinh nghiệm về tình yêu và hận thù. Nơi đó con người sống theo khuynh hướng bản năng : tôi yêu người yêu tôi và tôi ghét người ghét tôi ; tôi yêu cái gì thuộc về tôi và tôi ghét cái gì không thuộc về tôi. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu nói với môn đệ : “Anh em đã nghe Luật dạy rằng : Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù […]. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ?” (Mt 5, 43 ; 46-47), đó không phải vì Ngài phủ nhận tình yêu của người thu thuế hay người ngoại giáo, nhưng để nói về khuynh hướng tình yêu và hận thù nơi con người. Mặt khác, chúng ta nhận thấy ranh giới giữa tình yêu và hận thù thật mong manh. Chúng có thể chuyển đổi cho nhau cách dễ dàng theo cảm xúc.

Câu hỏi của Chúa Giêsu trên đây hướng môn đệ tới đời sống hoàn thiện hơn mà con người từ khởi thủy luôn khắc khoải tìm kiếm : yêu với tình yêu siêu nhiên (vượt lên trên khuynh hướng tự nhiên). Tình yêu này chỉ ở nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa đến để hòa giải tình yêu và hận thù. Bởi lẽ, bất cứ sự hận thù nào cũng làm phát sinh hận thù mới. Kinh nghiệm lịch sử về phong trào quốc tế cộng sản cũng như nhiều chế độ toàn trị khác cho chúng ta hiểu điều đó. Trong lúc chủ trương thế giới đại đồng theo lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản đã đào sâu thêm sự hận thù qua việc đấu tranh giai cấp. Thiên Chúa không hận con người vì sự bất phục tùng, cũng như không thiên vị về nguồn gốc của họ. Thánh Phaolô giải bày cho tín hữu thành Êphêsô thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau, đang sống trong tình yêu và hận thù : “Thật vậy, chính Người [Đức Kitô] là bình an của chúng ta : Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một ; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Eph 2, 14). Thập giá Đức Kitô là dấu chỉ của sự giao hòa giữa trời và đất, giữa tình yêu và hận thù : “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất ; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an : bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Eph 2, 16-18). Trên thập giá Đức Giêsu không miệt thị lại kẻ miệt thị mình. Hơn nữa, trong thinh lặng của tình yêu Ngài xin Thiên Chúa Cha ban ơn tha thứ cho họ.

Không có tình yêu chiến thắng hận thù, cũng như không có hận thù được khuất phục bởi tình yêu nếu không có sự hòa giải. Cuộc sống con người trong mối tương quan con người với nhau hay trong mối tương quan với Thiên Chúa là hành trình hòa giải luôn mãi giữa tình yêu và hận thù. Phải chăng Antigónê đã cảm nhận được không có sự sống trong hận thù, nhưng chỉ có cái chết ? “Tôi sinh ra không phải để cho sự hận thù, nhưng cho tình yêu ” là xác tín của Antigónê về con đường hòa giải đưa về thế giới tình yêu từ kinh nghiệm bi thương. Riêng người Kitô hữu tìm thấy nơi Thiên Chúa, qua thập giá Đức Kitô, con đường đưa tới sự sống mà nơi đó cánh cửa ngục tù của hận thù đã thực sự được mở toang để cho tình yêu ngự trị.

Trần Văn Khuê






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét