Trong kho tàng triết học và
huyền thoại Hy Lạp có vở bi hài kịch mang tên Antigónê
(Ἀντιγόνη, khoảng thế kỷ IV, tr. CN), Vốn là
hai anh em nhà Œdipe (Οἰδίπους), Eteoklếs (Ἐτεοκλῆς) và Poluneíkês (Πολυνείκης) đã chết cách bi thảm trong cuộc
chiến huynh đệ tương tàn. Dù là hai anh em cùng chung bụng mẹ sinh ra, nhưng mỗi
người lại ở mỗi tuyến chiến khác nhau. Eteoklếs chiến đấu cho Kréôn (Κρέων)
– vua thành Thíva
(Θήβα) , còn người em thì ngược lại. Poluneíkês bị Kréôn kết án là thành phần
phản loạn. Nhà vua ra sắc chỉ cấm cử hành nghi thức an táng thông thường cho Poluneíkês.
Lệnh
được thực hiện và thi thể của Poluneíkês
nằm đó không được thương khóc, không được chôn cất, làm mồi cho chim đói. Thế
nhưng, bất chấp lệnh cấm, Antigónê
đã mạo hiểm sự sống mình khi trải một lớp cát lên thi thể của anh mình làm dấu
chỉ của sự an táng. Cử chỉ can đảm và gây cảm xúc này kèm theo câu nói nổi
tiếng của Antigónê
với Kréôn:
“Tôi sinh ra không phải để cho sự hận thù, nhưng cho tình yêu ”. Và câu
nói đáp trả của Kréôn cũng đọng lại nơi tâm hồn
khán giả cảm xúc rùng rợn : « Nếu bản chất của
ngươi là sinh ra để yêu, thì hãy về nơi kể chết và yêu chúng !» Phải
chăng, đối với Kréôn, thế giới tình yêu là thế giới
của kẻ chết ?
Không
chỉ có nơi truyền thống văn chương và triết học Hy Lạp cổ, đối với ai thừa
hưởng và hiểu biết truyền thống Kinh Thánh đều nhận ra bi kịch giữa tình yêu và
hận thù được diễn tả ngay từ trang đầu của cuốn Kinh Thánh. Sau khi được trao
ban Evà – quà tặng tuyệt vời nhất của Đấng tạo hóa (vì trong số tạo vật được
Thiên Chúa tạo nên “con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (x.
St 2, 20), ngoại trừ Evà), Ađam thốt lên trong vui sướng : “Đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Thế nhưng, con rắn xuất hiện và bắt
đầu gieo vào tâm tưởng con người ý tưởng thù địch với Đấng tạo hóa cách tinh
ranh : “Rắn nói với người đàn bà : “Chẳng chết chóc gì đâu ! Nhưng Thiên Chúa
biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ trở nên
như những vị thần biết điều điều thiện điều ác” (x. St 3, 4-5). Con người nghĩ
thầm điều con rắn nói có lý. Chúng ta biết đoạn kết của câu chuyện này như thế
nào cũng như bi kịch tình yêu và hận thù khác còn kéo dài trong lịch sử Kinh Thánh
giữa con người và Đấng tạo hóa và giữa con người với nhau.
Câu
chuyện văn chương không phải vô cớ, nhưng nó chuyển tải cho chúng ta một phần
kinh nghiệm hiện sinh con người, đặc biệt kinh nghiệm về tình yêu và hận thù.
Nơi đó con người sống theo khuynh hướng bản năng : tôi yêu người yêu tôi và tôi
ghét người ghét tôi ; tôi yêu cái gì thuộc về tôi và tôi ghét cái gì không
thuộc về tôi. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu nói với môn đệ : “Anh em đã nghe
Luật dạy rằng : Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù […]. Nếu anh em yêu thương
kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế
cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh
em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ?”
(Mt 5, 43 ; 46-47), đó không phải vì Ngài phủ nhận tình yêu của người thu thuế
hay người ngoại giáo, nhưng để nói về khuynh hướng tình yêu và hận thù nơi con
người. Mặt khác, chúng ta nhận thấy ranh giới giữa tình yêu và hận thù thật
mong manh. Chúng có thể chuyển đổi cho nhau cách dễ dàng theo cảm xúc.
Câu
hỏi của Chúa Giêsu trên đây hướng môn đệ tới đời sống hoàn thiện hơn mà con
người từ khởi thủy luôn khắc khoải tìm kiếm : yêu với tình yêu siêu nhiên (vượt
lên trên khuynh hướng tự nhiên). Tình yêu này chỉ ở nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa
đến để hòa giải tình yêu và hận thù. Bởi
lẽ, bất cứ sự hận thù nào cũng làm phát sinh hận thù mới. Kinh nghiệm lịch sử
về phong trào quốc tế cộng sản cũng như nhiều chế độ toàn trị khác cho chúng ta
hiểu điều đó. Trong lúc chủ trương thế giới đại đồng theo lý thuyết, chủ nghĩa
cộng sản đã đào sâu thêm sự hận thù qua việc đấu tranh giai cấp. Thiên Chúa
không hận con người vì sự bất phục tùng, cũng như không thiên vị về nguồn gốc
của họ. Thánh Phaolô giải bày cho tín hữu thành Êphêsô thuộc nhiều nguồn gốc
khác nhau, đang sống trong tình yêu và hận thù : “Thật
vậy, chính Người [Đức Kitô]
là bình an của chúng ta :
Người đã liên kết đôi bên, dân Do
thái
và dân ngoại, thành một ;
Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Eph 2, 14). Thập giá Đức Kitô là dấu chỉ của sự
giao hòa giữa trời và đất, giữa tình yêu và hận thù : “Nhờ
thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân
thể duy nhất ;
trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình
an : bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật
vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất
mà đến cùng Chúa Cha” (Eph 2, 16-18). Trên thập giá Đức Giêsu không miệt thị
lại kẻ miệt thị mình. Hơn nữa, trong thinh lặng của tình yêu Ngài xin Thiên
Chúa Cha ban ơn tha thứ cho họ.
Không
có tình yêu chiến thắng hận thù, cũng như không có hận thù được khuất phục bởi
tình yêu nếu không có sự hòa giải. Cuộc sống con người trong mối tương quan con
người với nhau hay trong mối tương quan với Thiên Chúa là hành trình hòa giải
luôn mãi giữa tình yêu và hận thù. Phải chăng Antigónê đã cảm nhận được không có sự sống trong hận thù, nhưng chỉ có
cái chết ? “Tôi sinh ra không phải để cho sự hận
thù, nhưng cho tình yêu ” là xác tín của Antigónê về con đường hòa giải đưa về thế giới tình yêu từ kinh nghiệm
bi thương. Riêng người Kitô hữu tìm thấy nơi Thiên Chúa, qua thập giá Đức Kitô,
con đường đưa tới sự sống mà nơi đó cánh cửa ngục tù của hận thù đã thực sự được
mở toang để cho tình yêu ngự trị.
Trần Văn
Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét