Theo lẽ tự nhiên chúng ta nói về thế hệ người con Đất Việt sinh ra sau cột mốc
1975 như “người con hòa bình”. Bởi lẽ, cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” giữa
hai miền Nam – Bắc đã chấm dứt từ đó. Những đứa trẻ sinh ra không còn biết khói
đạn chiến tranh như cha ông chúng. Các cuộc chiến “khốc liệt” và “bi thương” chỉ
còn là câu chuyện “thực thực – hư hư”, “mờ mờ - ảo ảo” và mang nhiều tình tiết
“huyền thoại” được thêu dệt bởi nhiều màu sắc chính trị và cung bậc cảm xúc
khác nhau qua truyện kể, truyền thông đại chúng hay được hệ thống hóa trong những
trang sách “sử học”. Đó là cuộc chiến mà chính nhiều người thuộc bậc tiền bối của
chúng cũng muốn quên đi trong cay đắng. Quên đi cho một quá khứ quá “bạo tàn”
và quá “hãi hùng”. “Hòa bình”, đó là điều mà người ta tự hào.
Tuy
nhiên, tôi lại sực nhớ câu nói của cố Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII trong thông điệp
Pacem in terris (Hòa bình trên trái đất,
1963) : “Hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh”. Thông điệp này được gửi
cho tất cả mọi thành phần dân Chúa trong Hội Thánh Công Giáo cũng như cho mọi
người thành tâm thiện chí trên toàn thế giới, trong đó Đức Giáo Hoàng xác định sự
tồn tại của nền hòa bình đích thực chỉ được xây dựng trên nền tảng sự thật, công lý, bác ái và tự do. Lời minh định này đưa tôi vào cuộc
chiến tư tưởng về hòa bình trên mảnh đất đã hết rồi tiếng súng và bom đạn,
nhưng tiềm tàng chiến tranh.
Chúng
ta chưa có hòa bình khi cuộc chiến tự do
đang bị đàn áp. Tự do không đồng nghĩa với vùng “giải phóng”. Tự do cũng không
đồng nghĩa với “quan điểm chính trị” : bảo thủ hay phóng khoáng. Tự do vượt lên
trên mọi quan điểm và thể chế chính trị. Điều khôi hài là khi ai đó biểu đạt sự
tự do và tức khắc bị quy chụp về “quan điểm chính trị”. Tự do đơn giản là con
người. Con người tự do có khả năng lý trí suy nghĩ cách độc lập và không ngừng
tìm kiếm hạnh phúc. Tự do là giá trị tự nhiên được thừa nhận cách phổ quát : “Mọi
người sinh ra đều được tự do” (x. Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền, Điều 1).
Chúng
ta chưa có hòa bình khi cuộc chiến sự thật
đang trong mây mù. Sự thật và giả dối như bức tranh tối sáng mờ mờ ảo ảo. Việc “đánh
lộn con đen” như chiêu thức chính trị nhem nhúa trở nên thông thường. Trong bối
cảnh thật giả như “vàng thau lẫn lộn” con người phải chơi trò hai mặt trong mối
tương quan con người và xã hội. Tất cả chỉ là dối gian và bi kịch. Con người
sinh và có quyền được biết và nhận biết những gì là chân thật. Tìm kiếm sự thật
và xác tín sự thật là khuynh hướng bẩm sinh nơi con người.
Chúng
ta chưa có hòa bình khi công lý bị áp
đặt. Cán cân công lý không còn là thực tại khách quan, nhưng chỉ là sự áp đặt
cách độc đoán từ nhóm quyền lợi, của kẻ quyền hành. Luật thiết định không còn
giữ được bản chất nội tại căn bản là bảo vệ các “thành phần yếu” của xã hội,
nhưng trở thành công cụ của quyền lực thống trị. Cuộc chiến công lý là cuộc chiến
cho quyền tự nhiên : “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng” (x. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Điều 1).
Chúng
ta chưa có hòa bình khi bác ái vẫn
còn là thứ sản phẩm xa xỉ trong xã hội thực dụng, duy vật chất và phân biệt đối xử
vì hận thù chính trị. Nếu như xã hội pháp quyền là biểu tượng cho nền dân chủ
thì bác ái là biểu tượng cho xã hội
nhân bản. Cuộc chiến bác ái là cuộc chiến cho nền tảng : con người không được
sinh ra cho bạo quyền hay cho hận thù, nhưng là sống giá trị bác ái. Câu nói nổi tiếng của Antigone,
nhân vật anh hùng của Sophocle trong kho tàng triết học cổ Hy-lạp : “Tôi sinh
ra cho tình yêu, chứ không phải hận thù”. Biểu hiệu của đất nước hòa bình là
lòng bao dung, sự chia sẻ, tinh thần liên đới và hòa giải trong bác ái.
Trần Văn Khuê, aa