Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

TIN VÀ NHÌN THẤY, đức tin từ cái nhìn của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô


 Từ lúc lên ngôi Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô từng ngày đang thu phục trái tim nhiều người. Họ không chỉ là chiên trong đàn : “Chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo ta” (Ga 10,27), nhưng đó còn là người thuộc mọi tầng lớp, địa vị và vị thế xã hội khác nhau. Sức cuốn hút nơi con người Phan-xi-cô, theo đánh giá của nhiều người, là sự thân thiện, cởi mở, gần gũi. Gương mặt khả ái toát lên tâm hồn của người mục tử nhân hiền.

Tuy nhiên, mạch suối tuôn trào nguồn sống không ở nơi phong thái tự nhiên, nhưng từ tâm tình của người môn đệ Chúa Giê-su sống xác tín vào tình yêu như thánh Phao-lô : “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2Cr 5,14), và “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Con đường tình yêu qua ánh sáng đức tin : “Nhờ ánh sáng của Ngài chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36,10). Từ đó, trong cái nhìn của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, nền tảng đức tin là mối tương quan nội tại giữa “tin” và “nhìn thấy” : “Nào Thầy chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao ?” (Ga 11,40), Chúa Giê-su nói với cô Ma-ri-a sau khi làm cho La-da-rô sống lại. Cái nhìn này được Đức Giáo Hoàng khai triển trong Thông điệp “Ánh sáng đức tin” (thông điệp được viết chung cùng với Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, 6/2013) cũng như trong Tông huấn “Niềm vui Phúc âm” (11/2013).

Ánh sáng đức tin không phải là thứ “ánh sáng ảo giác” làm cho con người mộng mị, ngây ngô và mù quáng. Nó cũng không phải là “sự tự an ủi” theo cách “hãy vui sướng hồn ta ơi” mà triết gia người Đức, Nietzsche, phê bình (x. Ánh sáng đức tin, s. 2&3). Nhưng, “đức tin được sinh ra từ sự gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi và biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta. Tình yêu đó đi bước trước và trở thành đá tảng vững chắc để chúng ta có thể xây dựng đời sống” (x. Ánh sáng đức tin, s. 4). Lý giải đức tin là từ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống và qua ánh sáng đức tin chúng ta nhìn thấy tình yêu của Ngài, như thánh Gio-an viết : “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã tận mắt thấy, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1Ga 1,1).

Tin và nhìn thấy được Kinh Thánh Cựu Ước mô tả qua đức tin của Áp-ra-ham. Ông nghe tiếng Chúa và đáp lại lời mời gọi, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy dung mạo của Ngài. Tuy nhiên, nhờ tin vào lời hứa của Thiên Chúa mà ông được tận mắt thấy hậu duệ mình. Cũng vậy, đức tin của dân Do-thái cũng là đức tin nhìn thấy. Họ đã nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa thực hiện trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, đặc biệt với biến cố xuất hành (x. Ánh sáng đức tin, s. 12). Bước sang thời kỳ Tân Ước, lắng nghe và thị giác là hai yếu tố nền tảng của đức tin Ki-tô giáo : “Chân lý mà đức tin mở ra cho chúng ta là chân lý được đặt trọng tâm nơi sự gặp gỡ Đức Ki-tô, chiêm ngắm đời sống của Ngài, nhận ra sự hiện diện của Ngài. Trong ý nghĩa này, thánh Tô-ma A-qui-nô nói về oculata fides của các Tông đồ - đức tin nhìn thấy ! – thị giác thể lý về Đấng phục sinh. Họ nhìn thấy Đức Giê-su phục sinh với đôi mắt và họ đã tin, có nghĩa là họ đã có thể đi vào chiều sâu của những gì họ nhìn thấy để tuyên xưng Con Thiên Chúa, ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ánh sáng đức tin, s. 30). Thánh Gio-an nói nhiều về mối tương quan giữa “tin” và “nhìn thấy” này. Chính tác giả cuốn Tin Mừng thứ 4 cũng đã xác nhận điều này qua sự kiện ngôi mộ trống : “Ông đã thấy và đã tin” (x. Ga 20,1-10). Mặt khác, “Đức tin không chỉ hướng nhìn về Đức Giê-su, mà còn có cái nhìn từ cách nhìn của Đức Giê-su, với đôi mắt của Ngài : nó là biểu đạt cách nhìn của Đức Giê-su” (x. Ánh sáng đức tin, s.18).

Như vậy, tin và nhìn thấy có tầm quan trong trong đời sống đức tin của người Ki-tô hữu. Tin và nhìn thấy là ánh sáng cho họ không chỉ nhìn thấy Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời và chiêm ngắm đời sống của Ngài, mà còn nhìn thấy Ngài qua gương mặt người anh em. Đôi mắt lắng nghe giúp họ có tầm nhìn rộng lớn bao quát toàn bộ chương trình của Thiên Chúa từ khởi đầu công trình tạo dựng (x. Ánh sáng đức tin, s. 29). Tin và nhìn thấy còn mang chiều kích cộng đoàn trong việc cử hành phụng vụ và mối tương quan con người. Trong Tông huấn Niềm vui Phúc âm Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã dành nhiều trang để  nói về phụng vụ là “nơi Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài” cũng như gương mặt của Ngài được biểu lộ qua mối tương quan cộng đoàn. Ánh sáng đức tin cho họ nhìn thấy Thiên Chúa.


Trần Văn Khuê

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

ĐÔI ĐIỀU GHI NHẬN TỪ BÁO CHÍ



Thông tin đại chúng là một trong những thành tố làm phát triển xã hội. Đặc biệt công nghệ thông tin kỹ thuật số đã làm cuộc cách mạng truyền thông trong kỷ nguyên chúng ta. Ngoài khía cạnh tiêu cực như mất khả năng kiểm soát và kiểm chứng nguồn thông tin, chúng ta có thể nói thông tin đại chúng hôm nay mau lẹ và hiệu quả. Chúng góp phần thăng tiến con người trong việc cổ võ giá trị nhân bản và lên án những gì chống lại con người cũng như giúp tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội. Chúng thực sự đảm nhận sứ mệnh lớn lao là giáo dục như quan điểm của Emmanuel Kant.

Tuy nhiên, mặt khác chúng cũng bị sử dụng như công cụ chính trị. Lúc đó chúng không còn là chính nó, nhưng trở thành nô lệ của thứ chủ nghĩa không tưởng cực đoan mù quáng, thiếu cởi mở và khát khao tìm kiếm chân – thiện – mỹ. Dung mạo của nó có thể bị nhận diện khi chúng ta tham khảo và đối chiếu. Các ví dụ sau đây chưa đủ để kết luận điều được nêu ra trên đây, nhưng cho phép chúng ta đặt câu hỏi về tính giáo dục mà mục tiêu của nó là nhắm tới nền nhân bản và đạo đức trong từng nội dung truyền thông.

Các trích đoạn thông tin trình bày dưới đây về những sự kiện gần đây từ vào đầu tháng 12 (2013) tới nay. Cột bên trái trích đăng báo chí Việt Nam và cột bên phải trích đăng báo chí Pháp.


Trung Quốc giám sát oanh toạc cơ Mỹ trên biển Hoa Đông

"Quân đội Trung Quốc giám sát toàn bộ quá trình, kịp thời nhận biết và phán đoán đó là máy bay của Mỹ. Trung Quốc có khả năng thực hiện quyền kiểm soát tại vùng không phận này", AFP dẫn lời Đại tá Cảnh Nhạn Sinh, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc.
                    


Đọ sức trên Biển Hoa Đông : Trung Quốc bất lực trước đòn thị uy của Mỹ
« Quân đội Trung Quốc đã theo dõi toàn bộ quá trình bay (của hai chiếc B-52), đã thực hiện trong một thời hạn hợp lý việc nhận dạng và xác định rõ đó là loại máy bay Mỹ nào ». Trên đây là nội dung thông cáo vào hôm nay, 27/11/2013, của Bộ Quốc phòng Trung Quốc, liên quan đến sự kiện hai pháo đài bay B-52 của Mỹ đã đột nhập mà không hề báo trước vào vùng phòng không mà Bắc Kinh vừa thành lập bao trùm không phận quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên Biển Hoa Đông. Phản ứng này được coi là một lời thừa nhận sự bất lực của Bắc Kinh trong việc buộc nước khác công nhận hành vi đơn phương mở rộng khu vực vùng gọi là « nhận dạng và phòng không » của Trung Quốc nhằm áp đặt chủ quyền của họ trên một vùng cho đến nay vẫn được coi là không phận quốc tế.

Học sinh Việt Nam xếp hạng cao hơn Anh, Mỹ

Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA 2012 vừa công bố kết quả khảo sát, theo đó, học sinh Việt Nam xếp thứ 17 về Toán trên tổng số 65 nước tham gia. Vị trí này cao hơn nước Mỹ và Vương quốc Anh. 

Giáo dục, làm sao nước Pháp có thể phục hồi

Kết quả khảo sát PISA cho thấy học sinh Pháp thụt lùi về khả năng toán học và hơn bao giờ hết vô địch về sự mất cân bằng.

Vincent Peillon, Bộ trưởng giáo dục, nhận định « kết quả này là không thể chấp nhận được ». Về phần mình, Thủ tướng Jean-Marc Ayrault đánh giá đó là “cú điện gật”. Hệ thống giáo dục của chúng ta có thể vượt dốc ? Các chuyên gia và giáo viên đề xuất đường hướng nghiên cứu.


Khảo sát PISA : “Không giúp giảm thiểu, hệ thống học đường chúng ta làm gia tăng chênh lệch trình độ”

Pháp vừa nhận được kết quả rất tồi từ PISA, được tổ chức bởi OCDE. Ấn bản 2012, vừa mới được công bố vào ngày 03 tháng 12, xác nhận tính chất chắc chắn của khảo sát trước đây : tính mất cân đối của hệ thống học đường chúng ta. Đó là hệ thống đào sâu sự khác biệt giữa “học sinh tốt” và “học sinh xấu”. Nó giúp con em công nhân viên chức và giáo viên thành công, nhưng lại không phải cho những học sinh xuất thân từ giới trung lưu và lao động.


Việt Nam tăng 7 bậc trong xếp hạng chống tham nhũng

Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) hôm nay công bố bảng xếp hạng chống tham nhũng toàn cầu, trong đó Việt Nam đứng thứ 116, tăng 7 bậc so với năm ngoái.


Bảng xếp hạng về tham nhũng : Việt Nam đứng thứ 116/177

Trong năm 2013, Việt Nam giành được 31 điểm. Với số này điểm này đã đưa Việt Nam vào vị trí thứ 116. Trong khi đó, các quốc gia láng giềng của Việt Nam cũng không nhận được thứ hạng cao. Lào được 26 điểm, xếp thứ 140. Campuchia được 20 điểm, xếp ở vị trí 160. Thái Lan được 35 điểm, xếp thứ 102. Trung Quốc được 40 điểm, đứng ở vị trí 80.

Báo cáo cũng cho biết, tham nhũng là vấn đề rất phổ biến trên thế giới. Có tới 50% trong số các nước được xếp hạng có điểm số từ 50 trở xuống. Ông Huguette Labelle, Chủ tịch TI nhận định, báo cáo năm nay cho thấy tất cả các quốc gia vẫn đối mặt với mối đe dọa về tham nhũng ở mọi cấp của chính phủ, từ hoạt động cấp phép ở địa phương cho tới thực thi của pháp luật.


Việt Nam vẫn bị xếp vào diện các nước "dưới trung bình" vì tham nhũng

 

Vào hôm nay, 03/12/2013, Tổ chức Minh bạch Quốc tế Transparency International – một định chế chống tham nhũng rất có uy tín - đã công bố bảng chỉ số cảm nhận tham nhũng 2013 của mình. Trong số 177 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới được đánh giá, tình trạng Việt Nam vẫn bị xem là kém cỏi, bị xếp thứ 116.



Bạn nghĩ gì về khác biệt trong cách đặt vấn đề và trình bày trên đây ? Chúng ta phải thừa nhận khó đặt cách so sánh thích hợp giữa nước Pháp và Việt Nam chúng ta. Bất cứ sự so sánh nào cũng sẽ khập khiễng ở nhiều cấp độ : văn hóa, truyền thống, giáo dục, sự phát triển và vị thế trên thế giới, ngay cả khi Pháp đang gặp phải nhiều vấn đề xã hội như hôm nay. Báo chí Pháp rất khắt khe với Chính phủ trong chính sách phát triển đất nước. Sự khắt khe này hoàn toàn không mang tính “thù nghịch” và cũng không bị kết tội là “chống phá Nhà nước”. Nó giúp nước Pháp nhìn thấy rõ hơn con đường phía trước. Nói tóm lại, bất cứ sự tự biện chủ quan nào cũng sẽ là lực cản của sự phát triển.

Trần Văn Khuê



Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

GIÁO DỤC TỪ CÁI NHÌN CỦA EMMANUEL KANT

Trong số bài trên trang blog Saokhue, tôi đã đăng hai bài viết ngắn về giáo dục : “Giáo dục nhân tâm : mẹ của mọi nền giáo dục”[1] và “Về vấn đề giáo dục”, được trích từ cuốn sách : “Những điểm tựa luân lý Ki-tô giáo”[2]. Hôm nay tôi tiếp tục gợi lên một vài điểm suy tư ngắn gọn về giáo dục khác từ cái nhìn của Emmanuel Kant (1724-1804). Ông đã dành nhiều phần để luận bàn về giáo dục trong các tác phẩm triết học chính yếu của mình.

Trong cuốn « Réflexions sur l’éducation »[3] (tạm dịch : Suy tư về giáo dục), Emmanuel Kant đặt giáo dục làm nền tảng trong tiến trình phát triển con người. Giáo dục bao hàm việc chăm sóc (soins), kỷ luật (discipline), hướng dẫn (instruction) và huấn luyện (formation). Tuy nhiên, bước nhảy của con người là đi ra khỏi thời kỳ phôi thai của phát triển - sự chăm sóc, tồn tại nơi mọi loài động vật như bản năng phụ thuộc. Tiến trình này được thực hiện qua giáo dục và nó làm cho con người thoát khỏi tình trạng động vật : “chuyển từ trạng thái động vật sang trạng thái con người”, theo cách nói của Kant. Con người không thể sống theo bản năng, mà theo lý trí. Giáo dục giúp con người đi đúng quỹ đạo của mục đích tự nhiên là sự hoàn thiện và đỉnh cao của sự hoàn thiện là đạo đức. Qua giáo dục con người lĩnh hội phẩm chất tự nhiên thuộc về nhân loại. Quả vậy, khuynh hướng thô thiển và tình trạng hoang dã tiềm tàng nơi con người. Vì thế, người không được giáo dục là người hoang sơ. Giáo dục làm cho con người trở nên người.

Tuy nhiên, chúng ta không thể không đặt câu hỏi : giáo dục là gì và như thế nào ? Đối với Kant, giáo dục giúp con người khả năng suy tư tự lập và hành động tự do. Nó là con đường đưa con người tới việc lĩnh hội tri thức và hành xử đạo đức. Tự do trong tư tưởng của Kant không phải là đối lập lại sự áp bức mang tính chính trị, nhưng là sự giải phóng khỏi khuynh hướng hoang dã nơi con người. Con người tự do là con người được giải phóng khỏi sự “áp bức” của bản năng và trở nên tự lập trong ý muốn và suy tư. Tự do vì thế mang tính đạo đức.

Triết gia phương Tây này là gương mặt tiểu biểu của phong trào Ánh Sáng ở châu Âu vào thế kỷ XVIII. Phong trào mà đối với Kant là nhằm nâng cao nhận thức qua giáo dục trong đời sống xã hội và chính trị. Nó đưa con người ra khỏi miền u minh để xây dựng nền cộng hòa và dân chủ. Dân chủ không tự nó sinh ra cũng như không trở thành điều hiển nhiên cách đơn thuần qua tuyên bố nhân danh nền cộng hòa. Nó là tiến trình qua giáo dục. Mốc thời gian này – từ Kant tới hôm nay, đối với chúng ta là quá xa xôi. Tuy nhiên, xem chừng suy tư của ông về giáo dục mang tính thời đại. Sự tồn tại một số thể chế chính trị độc tài trên thế giới cho chúng ta thấy giáo dục đang có vấn đề nơi đây. Cũng vậy, nhìn vào đời sống xã hội như hệ lụy của việc giáo dục tại Việt Nam nhiều nhân sĩ yêu nước đã từng cảnh báo về hệ thống và triết lý giáo dục “mất định hướng”[4]. Phải chăng quan điểm của Kant về giáo dục vẫn mang tính hợp thời cho mọi nền văn hóa ?

Trần Văn Khuê



[3][3] Bản dịch tiếng Pháp.
[4] X. Những vấn đ giáo dục hiện nay. Quan điểm & giải pháp (nhiu tác giả), NXB Tri Thức, 2007.

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

VIỆT NAM VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC

Ngày 12 tháng 11 vừa qua (2013) Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc bầu 14 thành viên mới, trong đó có Việt Nam, vào Hội Đồng Nhân Quyền với nhiệm kỳ ba năm (2014-2017). Việt Nam – thành viên mới, nằm trong danh sách các quốc gia (Trung Quốc, Nga, Cuba, Ả Rập Xê Út…) gây nhiều tranh cãi về vấn đề nhân quyền trong nước. Chính vì thế việc trúng cử này gây ngạc nhiên và làm phẫn nộ nhiều tổ chức và cá nhân đấu tranh cho nhân quyền trên toàn thế giới[1] như trước đó họ đã từng lên tiếng phản đối[2] vì những vụ vi phạm nhân quyền[3].

Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc – được thành lập vào năm 2006 và được ghi nhận có nhiều chia rẽ nội bộ do các hồ sơ nhân quyền[4], không phải là cơ quan quyền lực có tính chất hành pháp, nhưng cũng không thể là sân chơi chính trị rẻ tiền mà nơi đó các thành viên có thể ngẫu hứng phát biểu theo cách của nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, Nguyễn Minh Triết, phát biểu tại Cuba trong chuyến viếng thăm của ông vào tháng 10 năm 2009 : “Có người ví von : Việt Nam và Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ ; Việt Nam gác thì Cuba ngủ”[5] ? Bởi lẽ, đó là Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc !

Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc : trường huấn luyện nhân quyền hơn là cơ quan bảo vệ nhân quyền ?

Nhìn vào danh sách các thành viên thuộc Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2017) chúng ta có cảm giác hội đồng này là trường huấn luyện nhân quyền hơn là cơ quan bảo vệ nhân quyền. Từ cái nhìn tích cực nhất có thể, Hội Đồng Nhân Quyền – theo cơ cấu tổ chức, vận hành theo tiêu chí cả về nội dung và hình thức : tập hợp thành viên tham gia vào công việc bảo vệ nhân quyền, và là nơi nhận thức về giá trị con người bất khả xâm phạm, cần được tôn trong xã hội dân sự. Nếu nó không là tổ chức hành động cụ thể thì ít ra cũng là diễn đàn về nhân quyền nhằm hạn chế rủi ro phát biểu theo “ngẫu hứng” ngay từ nơi các thành viên, như cách của “nữ chính trị gia” Việt Nam, bà Nguyễn Thị Đoan – Phó Chủ tịch nước Việt Nam (2007 - ) tuyên bố : “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản[6]. Không tranh cãi về lời tuyên bố này của bà Phó Chủ tịch nước, nhưng chúng ta nhìn vào số liệu mà nhà báo Phạm Chí Dũng đưa ra về việc sửa đổi Hiến pháp 1992 của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì phát biểu trên đây của bà Nguyễn Thị Đoan quả thật là “ngẫu hứng”[7] ! Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn nhận quan điểm của Emmanuel Kant, triết gia người Đức (1724 – 1804) : “Tự do và dân chủ nhờ giáo dục”, Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc có thể là trường huấn luyện nhân quyền. Nó vừa là sân chơi chính trị, vừa là diễn đàn mà nơi đó chúng ta hy vọng các thành viên “làm việc” nghiêm túc theo tinh thần “Hiến chương” của Liên Hiệp Quốc : “thăng tiến nhân quyền”[8].

Trường huấn luyện không thiếu rủi ro

Cái nhìn tích cực này không thể loại trừ rủi ro về “phản ứng phụ” từ cơ cấu nhân sự của Hội Đồng Nhân Quyền trên bình diện quốc tế cũng như quốc gia. Nhận định của “Hội phóng viên không biên giới” ngay sau khi các thành viên mới của Hội Đồng Nhân Quyền được bầu : “Kể từ đây nguy cơ liên minh chống lại tự do thông tin trở nên thực sự. Trong tổng số 47, có khoảng 20 thành viên nằm ở vị trí trên một trăm trong bảng xếp hạng về tự do báo chí của Hội phóng viên không biên giới [Cuba : 171 ; Việt Nam : 172 ; Trung Quốc : 173]. Cơ cấu mới này gây lo ngại là các nước thành viên công cụ hóa Hội đồng nhằm chống lại cách dữ tợn hơn việc thăng tiến và bảo vệ nhân quyền”[9]. Hay như đánh giá của Đoàn Xuân Lộc trong bài viết “VN vào Hội đồng nhân quyền để làm gì ?” : “che đậy hồ sơ nhân quyền kém cỏi của mình” [10] ? Điều này nguy cơ tầm thường hóa “quyền con người”.

Lời nguyền

Mọi con dân Đất Việt thiện chí mãi khát vọng xây dựng xã hội “phát triển lên tầm cao mới”, nơi đó đời sống con người mang chiều kích tinh thần, vật chất, tri thức, văn hóa, đạo đức và tôn giáo được thăng tiến.

Trần Văn Khuê






[1] X. Reporters sans frontières, « Election des nouveaux membres du conseil des droits de l’homme » (http://fr.rsf.org/election-des-nouveaux-membres-du-08-11-2013,45442.html).
[2] X. Thụy My, « Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc sẽ chấp nhận Việt Nam ? » (http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131112-hoi-dong-nhan-quyen-lien-hiep-quoc-se-chap-nhan-viet-nam).
[3] X. Tú Anh, « Ân Xá Quốc Tế tố cáo Việt Nam gia tăng đàn áp nhân quyền » (http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131107-an-xa-quoc-te-to-cao-viet-nam-gia-tang-dan-ap-nhan-quyen).
[4] X. Đoàn Xuân Lộc, “VN vào Hội Đồng Nhân Quyền để làm gì ?” (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/11/131115_un_human_rights_council_why.shtml).
[6] Lời phát biểu này được đăng trên báo Nhân Dân, ngày 05 tháng 11 năm 2011 (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Th%E1%BB%8B_Doan).
[7] Nhà báo Phạm Trí Dũng trả lời Ban Việt ngữ đài RFI : “Theo kết qu cuc kho sát ch s công lý 2012 do Chương trình Phát trin Liên Hip Quc (UNDP) ti Vit Nam, cùng vi Hi Lut gia Vit Nam, Trung tâm Nghiên cu Phát trin và H tr Cng đng, thì 42,4% dân chúng Vit Nam không biết gì v Hiến pháp, hoc chưa bao gi nghe nói đến Hiến pháp ! S 57,6% còn li là nhng người biết Hiến pháp là gì, hoc đã tng nghe nói ti Hiến pháp, thì trong đó có ti 23% không h biết Vit Nam đang t chc góp ý sa đi Hiến pháp. Thế thì làm sao có th nói là tuyt đi dân chúng đng tình vi bn D tho Hiến pháp mi ?” (x. Thụy My, “Hiến pháp mới : cơ hội cuối cho một Quốc hội” : http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20131114-hien-phap-co-hoi-cuoi-cung-cho-quoc-hoi).

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Trong nghi thức khai tâm Ki-tô giáo cho người lớn, lời đối thoại giữa chủ sự và dự tòng có đoạn : - Chủ sự : “Ông (bà, anh, chị) xin gì cùng Hội Thánh ?” , - Dự tòng : “Thưa xin đức tin” ; - Chủ sự : “Đức tin sinh ơn ích gì cho ông (bà, anh, chị) ?” , - Dự tòng : “Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời”.

Đối với tín hữu Ki-tô giáo, đức tin khai nguồn sự sống đời đời : “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Tin Mừng theo thánh Gio-an, chương 17, câu 3). Câu Tin Mừng này được trình bày lại tiếp theo trong lời đối thoại với dự tòng : “Sự sống vĩnh cửu là ông (bà, anh, chị) nhận biết Thiên Chúa thật và Đấng Người sai đến là Đức Giê-su Ki-tô. Quả thật Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, đã được Thiên Chúa đặt làm nguồn mạch sự sống và Chúa tể mọi loài hữu hình và vô hình. Sự sống ấy hôm nay ông (bà, anh, chị) đón nhận qua bí tích Thánh tẩy, và được trở nên môn đệ của Chúa Ki-tô”.

Tin Mừng nhất lãm (ba cuốn Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca) trình thuật câu chuyện người thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giê-su : “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ?” Sau khi nghe là phải tuân giữ các điều răn được ghi trong Luật Mô-sê, người ấy nói : “Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không ?” và Chúa Giê-su trả lời : “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (x. Mt 19, 16-21). Có nhiều chi tiết trong đoạn Tin Mừng này làm chúng ta quan tâm. Cả ba thánh sử Tin Mừng ghi lại người đến hỏi Chúa Giê-su về sự sống đời đời là người giàu có. Thánh Lu-ca còn có thêm chi tiết : người quý tộc hay thủ lãnh. Trong thông điệp “Veritatis Splendor” (Chân lý Rạng ngời), 1993, Chân phước Gio-an Phao-lô II – được nâng lên hàng hiển thánh vào tháng 04 năm 2014 sắp tới, cho rằng nhân vật trong đoạn Tin Mừng này tượng trưng cho con người phổ quát đi tìm câu trả lời về ý nghĩa cuộc sống. Câu trả lời của Chúa Giê-su cho người giàu có không là ý tưởng trừu tượng hay siêu hình, nhưng nó ám chỉ sự sống đời đời được khởi đầu hôm nay từ việc đáp lại mời gọi : “Hãy đến theo tôi”. Việc tuân giữ Lề luật – ngõ hầu đạt tới sự sống đời đời, được chuyển dịch sang cuộc sống bước theo Đấng “là Con đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Viễn cảnh Ki-tô giáo về sự sống đời đời này hoàn toàn không đi ngược lại xu hướng phát triển của thế giới và văn minh thời đại như một số người từng lên án hay bài xích. Nó không là rào cản của sự tiến bộ và cũng không đối kháng với lý trí. Ngược lại, nó là hiện thân của sự khôn ngoan – lý trí hoàn thiện, chất vấn nền văn minh tô màu lý trí nhưng lại đượm tràn chủ nghĩa duy ý chí. Sự sống đời đời triển nở trong đức tin không muốn hoán đổi nền khoa học thành lãnh vực tâm linh hay khoa học gia thành nhà thần bí, nhưng đặt lại vị thế con người trong sự phát triển, mà chúng ta nhận thấy nó nguy cơ bị công cụ hóa hay trở thành phương tiện trong mọi lãnh vực. Lợi ích kinh tế chà đạp nhân vị, quyền và phẩm giá con người ; thủ đoạn hay thủ thuật chính trị giam hãm con người trong thỏa hiệp đen tối. Hơn nữa như ghi nhận của Công đồng Va-ti-ca-nô II : “Con người vừa là chủ, vừa  là nạn nhân của sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật”.

Sự sống đời đời là mai sau, nhưng bắt đầu khởi sự từ hôm nay. Câu nói lừng danh của thánh giáo phụ I-rê-nê, giám mục thành Lyon vào cuối thế kỷ thứ II : “Hạnh phúc con người là được nhìn thấy Thiên Chúa”, nhưng “vinh quang của Ngài là con người đang sống”. Cái nhìn này đưa chúng ta vào thế giới dung hòa giữa Trời và Đất, giữa con người và vũ trụ và giữa con người cùng với tạo vật muôn loài. Trong thế giới hôm nay chúng ta cần đảm bảo trái đất này vẫn là “miền đất hứa” cho thế hệ mai sau và luôn phản ảnh vẻ đẹp huy hoàng của Đấng tạo hóa. Sự sống đời đời là đời sống viên mãn trong Thiên Chúa. Trong Ngài cuộc sống này được yêu thương tràn đầy và trở nên phong phú.


Trần Văn Khuê

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

TINH THẦN NÀO CHO THẾ GIỚI MỚI ?

Thế giới chúng ta trải qua nhiều biến chuyển. Đời sống xã hội, chính trị và kinh tế có nhiều đảo lộn theo thời gian. Các nền văn hóa dần được chỉnh hóa bằng cách gọt bỏ bớt tính quá cá biệt để trở nên cởi mở hơn. Não trạng, cách suy nghĩ và nhận thức của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, cũng thay đổi rất nhiều. Giáo dục không còn là vấn đề áp đặt những nguyên tắc hay thậm chí những điều không thể bàn cãi. Một số bậc cha mẹ chỉ có thể giáo dục con cái bằng cách theo chân chúng vào thế giới riêng của tuổi nổi loạn, dù đó là điều tồi tệ nhất đối với các bậc phụ huynh. Một số họ chia sẻ : vì biết rằng không thể cấm con mình thích ăn chơi ở các vũ trường, họ đành phải đưa con đi và đón con về. Đó không phải là thái độ chiều con thái quá, nhưng là triết lý phải áp dụng : “lạt mềm cột chặt”, “dây căng dễ đứt” ! Giáo dục không đơn thuần là bài học giáo khoa.

Tinh thần mềm dẻo

Thường khi đánh giá hay nhận định về mối tương quan xã hội giữa các cá nhân, người ta đề cập tới một trong những phẩm chất : mềm dẻo, hay ngược lại, điểm hạn chế là sự cứng nhắc. Mềm dẻo không ám chỉ sự nhu nhược chiều theo ý muốn của người khác, nhưng là sự thích nghi khéo léo bằng khôn ngoan và lý trí trong cách ứng xử và giải quyết vấn đề. Nó không loại trừ quyền bính và tính quyết đoán trong quyết định.

Mềm dẻo không là sự cứng nhắc bất di bất dịch theo triết lý và quan điểm riêng, không bị nhốt trong một ý thức hệ hay khuynh hướng. Tinh thần mền dẻo là tinh thần lắng nghe và đối thoại trong sự cởi mở hướng tới điều khả thể tốt nhất. Cần có những điều kiện để người ta có thể đối thoại với nhau trong tình yêu và sự thật, nhưng lắng nghe thì không bao giờ có giới hạn. Người ta chỉ có thể sai lầm khi không lắng nghe đủ, chứ không bao giờ lắng nghe dư thừa. Tuy nhiên, chỉ có tinh thần mềm dẻo mới cho phép người ta làm được điều đó.

Tinh thần liên đới

Nói tới tinh thần liên đới người ta có khuynh hướng nghĩ tới sự mất cân bằng giữa hai chủ thể : người trên và người dưới, một người cần nhận và một người ban ơn. Kẻ ban ơn bao giờ cũng đứng trên người có nhu cầu nhận. Không có người ăn mày nào lại tự cho mình bằng kẻ bố thí và cũng không có đầy tớ nào lại có thể coi mình ngang hàng với chủ. Tinh thần liên đới vì thế được nhìn từ trên xuống.

Liên đới không đến cách đơn thuần vì nhu cầu của người thứ hai hay người thứ ba xa lạ đối với tôi. Liên đới là làm phần cùng với người khác qua sự gắn kết trong cùng một khối. Về vấn đề này triết gia người Pháp, Emmanuel Levinas, (1906-1995) viết : gương mặt của người anh em gợi lên hình ảnh của chính tôi. Đó có thể là gương mặt vui tươi đầy hy vọng, nhưng cũng có thể là gương mặt bị tổn thương, bị chà đạp hay bị rách nát. Tinh thần liên đới là tính chất nội tại của đời sống nhân loại.

Đồng hành, chứ không phải giảng thuyết

Trong thế giới hôm nay chúng ta có quá nhiều lời tuyên bố. Người ta cũng cảm thấy đầy ứ các bài giảng thuyết thuộc mọi lãnh vực. Thật sự, chúng có phần bổ ích cho người nghe. Tuy nhiên, con người cần được đồng hành nhiều hơn. Tiếng nói phải hòa điệu cùng với nhịp bước chân và nhịp đập trái tim của người song hành.

Ki-tô giáo, từ truyền thống Kinh Thánh, tìm thấy khuôn mẫu của Người đồng hành đích thực nơi Thiên Chúa. Ngài đi vào lịch sử nhân loại nơi chính đời sống con người. Thiên Chúa nói với ông Gia-cóp : “Này ta ở với người ; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều ta đã phán với ngươi” (St 28,15). Thiên Chúa không còn chỉ là con đường mà con người tìm kiếm, nhưng con người trở thành con đường mà nơi đó Ngài đặt bước chân. Lời hứa này của Thiên Chúa trong Cựu ước trở thành bằng xương bằng thịt nơi Đức Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể : Thiên Chúa cư ngụ giữa con người như lời của thánh Gio-an (x. Ga 1,14). Sau này Đức Giê-su nói với ông Tô-ma và các Tông đồ khác : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đó không phải là bài giảng siêu hình của Đức Giê-su, nhưng là lời khẳng định chắc chắn về việc Thiên Chúa đang ở cùng với con người : “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy” (Ga 14,7).

Đồng hành là cuộc hành trình đi trong thời gian và không gian, cần có sức mạnh của sự kiên trì và lòng trung tín. Chính tư tưởng về sự “hoàn hảo”, “hiệu quả”, “thành công” và trong “ngắn hạn” làm cho con người thời đại đánh mất phẩm chất trên đây. Người ta đánh mất sự chịu đựng và lòng khao khát đi cho đến cùng để được nghe tiếng thì thầm của nhân loại.

Bài viết này nhằm vào ngày lễ thánh Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su, tôi muốn ghi lại câu nói đầy biểu cảm và sâu lắng của Thánh nữ để kết thúc : “TRONG TRÁI TIM CỦA GIÁO HỘI LÀ MẸ CON SẼ MÃI LÀ TÌNH YÊU”.

Trần Văn Khuê