Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

THÊM MỘT “LÃNH TỤ VĨ ĐẠI” ĐÃ RA ĐI

Trong những ngày này báo chí, đặc biệt là báo chí Việt Nam, đưa tin Chủ tịch Kim Jong Il đã từ trần, vì một cơn nhồi máu cơ tim, với những hình ảnh người dân Bắc Triều thương khóc cố Chủ tịch – “Lãnh tụ kính yêu”, “Lãnh tụ vĩ đại”. Thông tín viên của đài RFI, Fédéric Ojardias, viết từ Bình Nhưỡng (19/12) : “Theo hãng thông tấn chính thức của Bắc Triều Tiên, lãnh đạo Kim Jong Il dường như qua đời cách nay hai hôm (17/12), do quá mệt nên bị nhồi máu cơ tim trong lúc ông đang đi trên chuyến tàu đặc biệt thị sát tình hình đất nước. Đối với bộ máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên, cách nói này hàm chứa ý rằng ông Kim Jong Il đã qua đời trong lúc làm việc vì nhân dân.”[1]
Sự ra đi của Chủ tịch Kim tiếp theo sau những nhân vật “tầm cỡ” trên thế giới trong những năm qua : từ Sadam Hussen tới Bin Laden và Gaddafi. Đó là những cái chết gây nhiều cảm xúc trái chiều trên thế giới.
Sự thương khóc của những con dân đối với Chủ tịch Kim chắc chắn là có thật, vì người ta vẫn luôn được giáo dục phải “kính yêu” và “trung thành” với “lãnh tụ”. Điều này được thấy một cách rõ ràng ngay sau cái chết của Chủ tịch Kim. Mọi người dân Bắc Triều được kêu gọi phải yêu mến và trung thành với đồng chí Kim Jong Un, người được cho là sẽ thừa kế quyền cai trị đất nước. Quả thật, sự bị cô lập với thế giới trong những thập niêm qua càng làm cho một số thành phần dân chúng càng thương mến “Lãnh tụ kính yêu” của họ hơn. Khung cảnh này đã giúp Chủ tịch Kim xây dựng thành công hình tượng chính mình : thần tượng - trở thành ngẫu tượng, trong lòng con dân. Như thế, những kiểu khóc ai oán của một số con dân trên truyền hình nhà nước là điều rất dễ hiểu.
Tuy nhiên, Chủ tịch Kim có phải là một “Lãnh tụ vĩ đại” hay không thì cần phải được bàn thêm.
Trên toàn thế giới người ta vẫn biết Chủ tịch Kim là nhà lãnh đạo có “bàn tay sắt”, đã đóng tất cả mọi cửa ngõ giao thương với thế giới bên ngoài đối với người dân. Dưới chế độ của Chủ tịch Kim nhiều người dân Bắc Triều đã và đang sống trong sự nghèo đói và cơ bần.
Một số báo chí ca ngợi truyền thống gia đình cách mạng của Chủ tịch Kim. Kim Jong Un là đời thứ ba của gia đình họ Kim trị vì đất nước Bắc Triều. Trong những ngày này, song song với những diễn biến xung quanh cái chết của Chủ tịch Kim – “Lãnh tụ vĩ đại”, “Lãnh tụ kính yêu”, hệ thống chính trị của Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Bắc Triều đang nổ lực xây dựng một thần tượng mới : Đại tướng (chưa bao giờ nhập ngũ) Kim Jong Un – “Lãnh tụ vĩ đại”. Người ta cần một “thần tượng vĩ đại” mới để lấp chổ trống của “ngẫu tượng vĩ đại” vừa khuất. Hình như những chế độ theo chủ nghĩa Mác và Lê-nin thích mơ màng với mọi cái “vĩ đại” ! Nhiều người thực sự quan ngại về cách thức gia định trị của chế độ hà khắc này.
Một bài viết được đăng trên vnexpress.net, ngày 19 tháng 12, nói về những cuộc xung đột tại Bắc Triều trong nửa thế kỷ qua : “Nửa thế kỷ căng thẳng và xung đột ở Triều Tiên”[2]. Trong bài viết này chúng ta nhận thấy có những “căng thẳng” và “xung đột” ở Bắc Triều liên quan tới việc bất tuân thủ luật chơi quốc tế của Nhà nước Bắc Triều. Điều này dẫn tới những sự trừng phạt của quốc tế đối với đất nước này mà các con dân là những người vô tội. Chính cách hành động ngang tàng cho chúng ta hiểu về sự bất khả tín của chế độ chính trị được dẫn dắt bởi Chủ tịch Kim.
Từ những yếu tố trên đây, không biết người ta có thể tìm thấy sự “vĩ đại” nơi Chủ tịch Kim ? Nếu có thì chắc có lẽ là những điều “vĩ đại” được nêu lên trong bài viết của tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh : “Cóc chết, giải mã những cuộc than khóc của bầy cừu”[3].
Trần Văn Khuê, aa






[1] Fédéric OJardias, “Lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Il qua đời” ( http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20111219-lanh-dao-bac-trieu-tien-kim-jong-il-qua-doi ).
[2] Vũ Hà, “Nửa thế kỷ căng thẳng và xung đột ở Triều Tiên” ( http://vnexpress.net/gl/the-gioi/tu-lieu/2011/12/nua-the-ky-cang-thang-va-xung-dot-o-trieu-tien/ ).

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

CÂU CHUYỆN VỀ CON NGƯỜI


Từ khởi đầu cuốn Kinh Thánh chúng ta bắt gặp câu chuyện như sau : một hôm con người không còn dám giáp mặt Thiên Chúa vì con người thấy mình trần truồng và “kết lá vả làm khố che thân”. Sách Sáng thế nói về cách xử sự này của con người sau khi con người bất phục tùng Thiên Chúa : “ăn trái cấm” (x. St 3).
Con người nhận thấy mình trần truồng và lấy lá che thân. Sự trần truồng phơi bày con người khiếm khuyết. Tuy nhiên, con người lại không thể chấp nhận điều đó, nên đã lấy lá che thân mình. Con người muốn khoác lên mình một tấm áo nhằm cố gắng che kín sự trần truồng. Đó là khởi đầu của sự ảo tưởng nơi con người. Sự ảo tưởng này đeo đuổi con người trong mọi thời đại của lịch sử nhân loại.
Việc trốn chạy khỏi Thiên Chúa và tránh né sự thật từ đó luôn xảy ra nơi đời sống con người. Con người tự “tô son đánh phấn” để nâng cao giá trị và cho người khác khỏi phát hiện ra khiếm khuyết của mình. Con người vì thế thường có những sự giằng co trong đời sống giữa những gì là chân thật và những gì là ảo tưởng hay dối trá. Con người có những dự phóng. Tuy nhiên, những dự phóng không có Thiên Chúa lại đưa con người tới những lầm lạc khác trong thứ chủ nghĩa không tưởng (hệ thống tư tưởng được tưởng tượng, nhiều khi nó được hệ thống hóa bằng giáo điều). Thuyết duy vật và chủ nghĩa vô thần hiện đại là trong số những thứ chủ nghĩa không tưởng.
Khác với kinh nghiệm của thánh Augustinô và của thánh Tôma Aquinô sau này : con người luôn quy hướng về Thiên Chúa, con người của sách Sáng thế chạy trốn Thiên Chúa. Con người chạy trốn Thiên Chúa vì sợ hãi. Đây cũng là một kinh nghiệm khác của con người. Con người sợ hãi vì trần truồng, một sự trần truồng không tương ứng với dung nhan của Ngài. Chính vì thế, đối với Ki-tô giáo, con người chỉ thực sự được mặc lấy con người mới và sống sự tự tin với tư cách là người con của Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.
Câu chuyện về con người cũng là câu chuyện giữa con nguời và Thiên Chúa. Trong câu chuyện này Thiên Chúa đã không để mặc con người trong sự hư vô, nhưng muốn cứu con người bằng mọi giá (dĩ nhiên với sự đồng thuận của con người trong sự tự do). Chính vì thế mà xuất hiện một con người mới : con người Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô qua mầu nhiệm Nhập thể (Giáng sinh).
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự trần truồng để dạy cho con người hiểu biết về tình trạng trần truồng của nó : sự trần truồng khi sinh ra và cái chết trên thập giá. Trần truồng là sự nghèo khó tuyệt đối của con người. Sự nghèo khó này không chỉ đơn giản vì con người thiếu cái che thân hay bị người khác tước đoạt cái của mình, nhưng con người không thể ảo tưởng và cũng không thể tự biến hóa thành một cái gì khác.
Qua mầu nhiệm Nhập thể, con người cũng học biết nơi Thiên Chúa rằng con người làm phần với Thiên Chúa : con người đến từ Thiên Chúa và trở về với Ngài. Chính điều này làm nên sự khác biệt nơi con người so với mọi tạo vật khác : con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người hẳn phải hân hoan vì nhận biết mình có nguồn gốc siêu việt. Ngay từ khởi đầu con người đã muốn tiến gần tới Thiên Chúa hơn : nên giống như Ngài.
Trần Văn Khuê, aa

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

CUỘC SỐNG VÀ KIẾP NHÂN SINH

 
Công đồng Va-ti-ca-nô II nhận định về “thân phận con người” trong thế giới hôm nay dưới những khía cạnh như sau :
Trước hết, con người mang nơi mình những “hy vọng và lo âu”. Tâm trạng này phát xuất từ những biến đổi sâu rộng trong thế giới. Những sự biến đổi này nhanh chóng và đa dạng, tác động lên đời sống con người về cả hai mặt tích cực và tiêu cực ; chúng đang “thách đố và thúc bách con người tìm câu giải đáp”.
Tiếp đến, con người đang trong vòng xoay của sự biến đổi về tâm thức. Người ta chuyển đi từ thế giới duy tâm sang thế giới khoa học : “Tinh thần khoa học này đang tạo ra một nền văn hóa và những lối suy tư khác với trước kia”.
Sau đó, con người chịu sư biến đổi trong phạm xã hội. Ý tưởng về “thị tộc”, bộ lạc, xóm làng bị thay đổi. Người ta chủ trương tổ chức xã hội mới theo “khôn mẫu kỹ nghệ”. Những phương tiện truyền thông bùng nổ cũng làm đảo lộn cuộc sống con người.
 Cuối cùng, con người đối diện với những biến đổi về tâm lý, luân lý và tôn giáo. Nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đặt lại vấn đề những giá trị đã được lĩnh hội. Não trạng mới nơi con người là đi ra khỏi các định chế và thế giới thần linh.
Cuộc sống và kiếp nhân sinh
Tiếp theo những ghi nhận trên đây của Công đồng Va-ti-ca-nô II chúng ta nghĩ về cuộc sống và kiếp nhân sinh.
Mỗi người đi vào trong lòng thế giới một cách ngẫu nhiên như một cuộc phiêu lưu. Thế giới mà con người được đưa vào đã định hình nhưng chưa hoàn tất. Nó đã định hình với những nguyên lý, quy luật, định chế, truyền thống (văn hóa và tôn giáo) …, nhưng nó vẫn chưa hoàn tất vì còn được hoàn thiện với trách nhiệm “đồng tạo dựng” của con người. Trong thế giới đó, con người mò mẫm khám phá những điều kỳ diệu và mọi mối tương quan nhân sinh và vũ trụ. Trong cuộc hành trình đời sống này con người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, vì thế giới xung quanh nó bao la và rộng lớn. Trong thế giới đó con người phải học tự lớn lên trong tự do và trách nhiệm như ngôn ngữ của Jean-Paul Sartre : “Con người được ném vào trong thế giới và tự vạch cho mình con đường đi”.
Kiếp nhân sinh gắn liền với cuộc sống. Kiếp ở đây không phải là “cái nghiệp” – vòng xoay của cuộc sống con người (kiếp luân hồi) với những hệ quả của đời sống đạo đức. Kiếp cũng không phải là thuyết định mệnh : mọi sự đã được thiết định. Kiếp nhân sinh là thân phận con người trong thế giới : con người lo âu và hy vọng.
Con người lo âu vì những mảnh đời cơ hàn và thất vọng, vì những sự kiện bi thương và ai oán. Người ta hụt hẫng vì một cái chết bất ngờ, cũng như trở nên mệt mỏi với cuộc sống kéo lê trong sự đau đớn. Trong cuộc sống này con người phải rơi lệ, phải than khóc : những giọt nước mắt cho chính mình và cho tha nhân.
Nhưng, con người vẫn không ngừng hy vọng : hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, một cuộc sống ít bất hạnh. Con người luôn tranh đấu không phải để tồn tại, mà hiện sinh (sống một cuộc sống đầy tràn ý nghĩa). Sức mạnh con người là sự dẻo dai và khả năng vượt lên những đau thương. Hy vọng gắn liền với cuộc sống con người.
Kiếp nhân sinh và niềm tin Ki-tô giáo
Ki-tô hữu không là những người được miễn trừ khỏi những trải nghiệm nhân sinh : hy vọng và lo âu. Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cuộc sống con người được nâng đỡ một cách hoàn toàn chính nhờ sự kiện Thiên Chúa đã đi vào trong cuộc sống của con người qua mầu nhiệm Nhập thể cũng như cái chết và sự Phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô.
Thiên Chúa của Ki-tô giáo là Thiên Chúa duy nhất đã làm người và ở giữa nhân loại trong Đức Giê-su Ki-tô. Mầu nhiệm Nhập thể soi chiếu kiếp nhân sinh : Thiên Chúa mặc lấy thân phận con người và con người hiểu rằng cuộc sống của nó có một giá trị lớn lao cho dù cuộc sống này phải nếm mùi đau khổ.
Thiên Chúa của Ki-tô giáo cũng là Thiên Chúa duy nhất đã đi từ cõi chết đến sự phục sinh vinh quang. Sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô đã mở ra cho tất cả những ai theo Người con đường tới sự sống vĩnh hằng.
Đối với các Ki-tô hữu, những lo âu được giải nghĩa qua cuộc sống của Đức Giê-su : “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” (Pl 2,6-7). Cũng vậy, niềm hy vọng Ki-tô giáo không hệ tại ở sức mạnh con người, nhưng nơi quyền năng của Thiên Chúa. Niềm tin của người Ki-tô hữu là con người không thể bị phó mặc cho những sự hỗn mang của thế giới.
Trần Văn Khuê, aa

CUỘC SỐNG VÀ KIẾP NHÂN SINH

Công đồng Va-ti-ca-nô II nhận định về “thân phận con người” trong thế giới hôm nay dưới những khía cạnh như sau :
Trước hết, con người mang nơi mình những “hy vọng và lo âu”. Tâm trạng này phát xuất từ những biến đổi sâu rộng trong thế giới. Những sự biến đổi này nhanh chóng và đa dạng, tác động lên đời sống con người về cả hai mặt tích cực và tiêu cực ; chúng đang “thách đố và thúc bách con người tìm câu giải đáp”.
Tiếp đến, con người đang trong vòng xoay của sự biến đổi về tâm thức. Người ta chuyển đi từ thế giới duy tâm sang thế giới khoa học : “Tinh thần khoa học này đang tạo ra một nền văn hóa và những lối suy tư khác với trước kia”.
Sau đó, con người chịu sư biến đổi trong phạm xã hội. Ý tưởng về “thị tộc”, bộ lạc, xóm làng bị thay đổi. Người ta chủ trương tổ chức xã hội mới theo “khôn mẫu kỹ nghệ”. Những phương tiện truyền thông bùng nổ cũng làm đảo lộn cuộc sống con người.
 Cuối cùng, con người đối diện với những biến đổi về tâm lý, luân lý và tôn giáo. Nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đặt lại vấn đề những giá trị đã được lĩnh hội. Não trạng mới nơi con người là đi ra khỏi các định chế và thế giới thần linh.
Cuộc sống và kiếp nhân sinh
Tiếp theo những ghi nhận trên đây của Công đồng Va-ti-ca-nô II chúng ta nghĩ về cuộc sống và kiếp nhân sinh.
Mỗi người đi vào trong lòng thế giới một cách ngẫu nhiên như một cuộc phiêu lưu. Thế giới mà con người được đưa vào đã định hình nhưng chưa hoàn tất. Nó đã định hình với những nguyên lý, quy luật, định chế, truyền thống (văn hóa và tôn giáo) …, nhưng nó vẫn chưa hoàn tất vì còn được hoàn thiện với trách nhiệm “đồng tạo dựng” của con người. Trong thế giới đó, con người mò mẫm khám phá những điều kỳ diệu và mọi mối tương quan nhân sinh và vũ trụ. Trong cuộc hành trình đời sống này con người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, vì thế giới xung quanh nó bao la và rộng lớn. Trong thế giới đó con người phải học tự lớn lên trong tự do và trách nhiệm như ngôn ngữ của Jean-Paul Sartre : “Con người được ném vào trong thế giới và tự vạch cho mình con đường đi”.
Kiếp nhân sinh gắn liền với cuộc sống. Kiếp ở đây không phải là “cái nghiệp” – vòng xoay của cuộc sống con người (kiếp luân hồi) với những hệ quả của đời sống đạo đức. Kiếp cũng không phải là thuyết định mệnh : mọi sự đã được thiết định. Kiếp nhân sinh là thân phận con người trong thế giới : con người lo âu và hy vọng.
Con người lo âu vì những mảnh đời cơ hàn và thất vọng, vì những sự kiện bi thương và ai oán. Người ta hụt hẫng vì một cái chết bất ngờ, cũng như trở nên mệt mỏi với cuộc sống kéo lê trong sự đau đớn. Trong cuộc sống này con người phải rơi lệ, phải than khóc : những giọt nước mắt cho chính mình và cho tha nhân.
Nhưng, con người vẫn không ngừng hy vọng : hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, một cuộc sống ít bất hạnh. Con người luôn tranh đấu không phải để tồn tại, mà hiện sinh (sống một cuộc sống đầy tràn ý nghĩa). Sức mạnh con người là sự dẻo dai và khả năng vượt lên những đau thương. Hy vọng gắn liền với cuộc sống con người.
Kiếp nhân sinh và niềm tin Ki-tô giáo
Những Ki-tô hữu không là những người được miễn trừ khỏi những trải nghiệm nhân sinh : hy vọng và lo âu. Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cuộc sống con người được nâng đỡ một cách hoàn toàn chính nhờ sự kiện Thiên Chúa đã đi vào trong cuộc sống của con người qua mầu nhiệm Nhập thể cũng như cái chết và sự Phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô.
Thiên Chúa của Ki-tô giáo là Thiên Chúa duy nhất đã làm người và ở giữa nhân loại trong Đức Giê-su Ki-tô. Mầu nhiệm Nhập thể soi chiếu kiếp nhân sinh : Thiên Chúa mặc lấy thân phận con người và con người hiểu rằng cuộc sống của nó có một giá trị lớn lao cho dù cuộc sống này phải nếm mùi đau khổ.
Thiên Chúa của Ki-tô giáo cũng là Thiên Chúa duy nhất đã đi từ cõi chết đến sự phục sinh vinh quang. Sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô đã mở ra cho tất cả những ai theo Người con đường tới sự sống vĩnh hằng.
Đối với các Ki-tô hữu, những lo âu được giải nghĩa qua cuộc sống của Đức Giê-su : “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” (Pl 2,6-7). Cũng vậy, niềm hy vọng Ki-tô giáo không hệ tại ở sức mạnh con người, nhưng nơi quyền năng của Thiên Chúa. Niềm tin của người Ki-tô hữu là con người không thể bị phó mặc cho những sự hỗn mang của thế giới.
Trần Văn Khuê, aa