Qua
chiều dài lịch sử biết bao sự kiện và biến cố để lại trong ký ức khó quên của
nhân loại. Nhiều chấm đen lịch sử khó bị tẩy rửa và viết thương bi ai không thể
được chữa lành. Chúng ta mang nó nơi mình như bài học kinh nghiệm xương máu,
cho dù vẫn chưa bao giờ biết cách làm tốt hơn cho ngày mai tươi đẹp, con người
sống trong hòa bình và mọi người được vui hưởng niềm vui trọn vẹn sống làm người.
Cũng
không chỉ với thảm kịch mang mang tầm vóc thế giới, chúng ta nhiều lúc choáng
váng vì cái bị lãng quên. Cái bị lãng quên tầm thường và thường ngày. Nó tầm
thường đến mức không được mấy ai quan tâm. Nó tầm thường vì không đủ sức gây tiếng
vang và bị tan biến trong mối bận tâm khác của con người. Hình ảnh em bé bơ vơ
không người nương tựa, cụ già neo đơn mắt lệ nhòa nơi xa vắng, dân lành lam lũ
không tìm đủ ngày hai bữa cơm no nơi phố thị xa hoa giàu có…, tất cả chỉ tầm thường.
Chúng
ta phẫn nộ cho cái thói tham lam giàu có và quyền lực đến mức áp bước người
khác. Vang vọng đâu đó câu hỏi của con người : “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi : này Thiên Chúa ngươi đâu ?” (Thánh Vịnh 45,
4).
Thiên
Chúa ẩn mình, Thiên Chúa vẫn thinh lặng như lời của ngôn sứ I-sa-i-a : “Lạy
Thiên Chúa của Ít-ra-en, lạy Đấng Cứu Độ, Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn mình”
(Is 45, 15). Kinh nghiệm về Thiên Chúa
vượt khỏi tầm hiểu biết con người ! Quả thật, ngoại trừ trường hợp của Gia-cóp
diện đối diện với Thiên Chúa : “Tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã
được tha mạng” (St 32, 31), truyền thống Kinh Thánh Cựu Ước cho ta biết con người
không nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện bao giờ, nhưng họa may chỉ nhìn thấy
Ngài từ phía sau. Sách Xuất hành tường thuật về cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và
Mô-sê trên núi như sau : “Ông Mô-sê nói : xin Ngài thương cho con được nhìn thấy
vinh quang của Ngài”. […]. Người phán : “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta,
vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống”. Đức Chúa còn phán : “Đây là chỗ gần
Ta ; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. Khi vinh quang Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào
trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi cho đến khi Ta đi qua. Rồi Ta sẽ rút tay
lại, và ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy”” (Xh
33, 18-23). Tuy nhiên, I-sa-i-a không chỉ nói về Thiên Chúa ẩn mình qua việc
không biểu lộ cho con người thấy “tôn nhan” Ngài, hay như thể Ngài ở chốn hoang
vu : “Khi Ta phán, Ta đâu có ẩn mình ở nơi nào trong vùng đất tối tăm. Ta không
bảo giống nòi Gia-cóp : Hãy tìm Ta trong cảnh hoang vu” (Is 45, 19), nhưng chính là Ngài không ở trong bất cứ
hình tượng nào mà con người phác họa nên. Đó là “kẻ làm ra ngẫu tượng”
(45,16), “người kiệu tượng gỗ, khấn vái thứ thần chẳng cứu được ai” (45, 20). Thiên
Chúa mà con người tưởng vọng có thể là Thiên Chúa của sở thích, Thiên Chúa của
nhu cầu, Thiên Chúa của cảm tính, Thiên Chúa của quyền lực, Thiên Chúa của tham
vọng, Thiên Chúa của sự toan tính con người. Nói cho cùng, trong ý tưởng tượng
con người Thiên Chúa hoàn toàn vắng lặng.
Thiên
Chúa ẩn mình ngay trong chính công trình tạo dựng của Ngài khi đặt con người
vào trung tâm vũ trụ và trao quyền cho con người trông coi nó với sự tự do.
Ngài ẩn mình trong sự thinh lặng của Đức Giê-su. Sự ẩn mình tột độ của Thiên
Chúa nơi cái chết bi thảm của Đức Giê-su trên đồi Gôn-gô-ta vào ngày thứ sáu trước lễ
Vượt qua của người Do-thái. Nơi đó một lần nữa con người chất vấn về Ngài : “Ông
không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa” (Lc
23, 39). Nhưng, vinh quang Thiên Chúa được biểu lộ qua sự ẩn mình của Ngài.
Trần Văn Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét