Hòa
giải là chủ đề nền tảng xuyên suốt cuốn Kinh Thánh ghi lại hành trình cứu độ của
Thiên Chúa. Khi con người bất phục tùng, Thiên Chúa không ngừng tái lập giao ước
với loài người : lòng trung tín và tình yêu của Ngài bền vững muôn năm (x.Tv
135). Ngài yêu thương ngay cả khi con người còn sống trong tội lỗi như lời của
thánh Phao-lô (x. Rm 5, 8).
Con
đường hòa giải của Thiên Chúa vì thế trở thành mệnh lệnh trong giáo huấn của Đức
Giê-su. Sự đòi buộc Tin Mừng trở nên khắt khe. Hòa giải không còn là sự lựa chọn
tùy thích, mà là điều kiện làm thành môn đệ của Đức Giê-su. Chúng ta từng học
biết lời này : “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người
anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ,
đi làm hòa với anh em đó trước đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,
23-24). Sự hòa giải thiết yếu hơn của lễ, chính vì của lễ và nơi dâng của lễ
đích thực là sự giao hòa giữa Thiên Chúa và con người cũng như con người với
nhau.
Nếu
như hòa giải là tính chất của đời sống con người, vì con người cần hòa giải và
được hòa giải và không thể sống trong hy vọng nếu không có sự tha thứ, chúng ta
vẫn nhận thấy hòa giải là con đường đầy thách thức. Nó đòi hỏi những đức tính cần
thiết, nhưng không dễ dàng đạt tới, như trong thư của thánh Phao-lô gửi cộng
đoàn tín hữu Ê-phê-sô : “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại ;
hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Eph 4, 2). Ngoài các đức tính :
khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, bác ái và chịu đựng, hòa giải còn là một tiến
trình.
Không
có hòa giải nếu không có nhận thức. Sự hòa giải chỉ có thể khi con người nhận
thức rằng nó thật sự cần thiết và chính nó làm nên sự sống. Sự nhận thức không
chỉ thuần túy tri thức, nhưng còn là xác tín được thúc đẩy bởi niềm tin nơi con
người. Chúng ta đọc thấy trong lịch sử thế giới những dân tộc dễ hòa giải với
nhau hơn, ngay cả sau các cuộc chiến huynh đệ tương tàn, khi họ có khả năng đối
thoại : trao đổi thẳng thắn và cởi mở bằng nhận thức, cũng như được thừa hưởng
nền nhân bản đích thực.
Không
có sự hòa giải nếu không có đối thoại. Hòa giải không thể thực hiện đơn phương
; nó cần đối thoại. Chỉ trong đối thoại con người mới có thể hòa giải. Lời cho
phép con người giao cảm và hòa giải với nhau. Nhưng, người ta không thể đối thoại
khi bị chi phối bởi mặc cảm hay thành kiến. Người ta cũng không thể đối thoại bởi
tư tưởng thù địch hay sống trong tư thế tự vệ. Giáo dục phi nhân bản và tuyên
truyền chính trị đặt “đấu tranh giai cấp” gây hận thù làm cứu cánh biến “con
người là sói của nhau”.
Không
có sự hòa giải nếu con người không hướng về cùng mục đích : Chân – Thiện – Mỹ. Hòa
giải không chỉ là giải quyết một vài vấn đề tình cảm hay xung đột. Nó phải là
con đường đưa tới “Chân – Thiện – Mỹ”. Chỉ có điều này mới cho phép con người
hòa giải với nhau. Bởi lẽ, những toan tính cá nhân hẹp hòi sẽ mãi giam hãm con
người trong chính mình, khó làm cho người ta trở nên cao thượng và quảng đại với
nhau.
Hòa
giải đòi hỏi dấn thân. Yêu thương và tha thứ nơi lời nói thôi chưa đủ. Đối với
người Ki-tô hữu, sự dấn thân này chỉ có thể khi hướng nhìn về Thiên Chúa và cầu
mong ân sủng của Ngài. Tin Mừng không chỉ có lời yêu thương, nhưng còn yêu
thương trong xác phàm như sự tự hủy của Thiên Chúa. Con đường hòa giải Tin Mừng
là con đường ân sủng, nhưng là thứ “ân sủng đắt giá” như nhà thần học người Đức,
Dietrich Bonhnoeffer, từng nói trong tác phẩm “Bước theo Đức Ki-tô”.
Trần Văn Khuê