Đối
với nhiều người, ít nhất là tín hữu thuộc Ki-tô giáo và Do-thái giáo, cụm từ
“Dân Thiên Chúa” không mấy xa lạ. Bởi lẽ, nó gợi lại cách gọi mà Thiên Chúa nói
với dân tộc Do-thái (Ít-ra-en) trong Cựu ước như “Đức Chúa phán với ông Mô-sê :
"Hãy đến gặp Pha-ra-ô và nói với vua ấy : Đức Chúa phán thế này : Hãy thả
dân Ta ra, để họ đi thờ phượng Ta” (Xh 7, 26), hay “Thiên Chúa anh em phán :
Hãy an ủi, an ủi dân Ta” (Is 40, 1)…. Từ truyền thống Cựu ước Ít-ra-en được gọi
là dân tuyển chọn, dân riêng của Đức Chúa.
Với
Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân) –
Hiến chế Tín lý về Giáo hội, của Công đồng Va-ti-ca-nô II, “Dân Thiên Chúa” là
một trong số cách diễn nghĩa về Giáo hội : “thân thể Đức Ki-tô”, “thực tại hữu
hình và thiêng liêng”…, nhằm nhấn mạnh tính năng động của đời sống và ơn gọi
Ki-tô hữu.
Sự biến chuyển của thế giới và con
người thời đại
Công
đồng, trong Hiến chế Vui mừng và Hy vọng
– Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hôm nay, ghi nhận những thay đổi
mau lẹ và sâu đậm của thế giới nhờ trí óc thông minh và phát minh khoa học của
con người. Cũng vậy, con người thời đại bị xâu xé từ nhận thức trái ngược : sự
phát triển và hệ lụy của nó, chênh lệch giữa giàu có và nghèo đói, tự do phóng
khoáng và hình thức nô lệ mới. Đó là vui mừng và hy vọng, lo lắng và ưu sầu của
con người thời đại.
Sự
biến đổi sâu rộng đến từ phát minh và phát triển khoa học. Tinh thần khoa học tạo
nên lối suy tư mới so với trước kia. Kỹ thuật làm thay đổi cục diện địa cầu. Điều
này tác động lên tâm lý con người muốn chinh phục cả không gian và thời gian.
Mặt
khác, sự biến chuyển không chỉ đến từ phát minh và phát triển khoa học mà còn từ
cơ cấu xã hội. Mô hình xã hội truyền thống bị thay đổi do việc đô thị hóa và được
định hình theo “khuôn mẫu kỹ nghệ”. Biến chuyển này tác động lên cách suy nghĩ
và cách tổ chức đời sống. Mối tương quan con người không còn chỉ được giới hạn
trong phạm vi “làng xóm”, nhưng được “xã hội hóa” : mối liên hệ mới vượt ranh
giới vùng miền không ngừng gia tăng.
Từ
biến chuyển trong phạm vi khoa học và xã hội dẫn đến biến chuyển tâm lý, luân
lý và tôn giáo. Người ta đặt lại vấn đề giá trị truyền thống : tốt hay xấu,
tích cực hay tiêu cực, thích hợp hay lỗi thời, lâu bền hay nhất thời…. Cũng vậy,
nhiều người muốn đi ra khỏi thế giới niềm tin vì khoa học.
Ngoài
ra, Công đồng còn ghi nhận vấn nạn sâu xa của nhân loại. Nhiều người mãn nguyện
với phát triển mới trong lãnh vực khoa học – kỹ thuật và xã hội và đánh mất ý
thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống hôm nay và mai hậu.
Giáo hội trong lòng thế giới
Công
đồng phác họa bức tranh thế giới qua ghi nhận các chuyển biến mới của thế giới
nhiều lúc vượt khỏi khung cảnh truyền thống. Trong lòng thế giới này Giáo Hội
hiện hữu như người đồng hành và chia sẻ. Từ lời mở đầu của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng Công đồng viết : “Vui mừng và hy vọng,
ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay, nhất là của người nghèo và những ai
đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa
Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong
lòng họ. Thật vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được
quy tụ trong Chúa Ki-tô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc hành trình về
Nước Cha và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi đem tới cho mỗi người. Vì thế, cộng
đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử
nhân loại” (số 1).
Giáo
hội sống Tin Mừng là thực thể liên đới và làm phần cùng với toàn thể nhân loại
: sống vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người thời đại. Sống liên
hệ mất thiết với con người là đời sống của Giáo hội. Đời sống này xuất phát từ công
trình tạo dựng, mầu nhiệm Nhập thể, cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô. Tin Mừng
cho chúng ta biết Thiên Chúa đi vào đời sống con người và nhân loại cách sâu xa
qua cuộc sống con người nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Sứ mạng của dân Thiên Chúa
Hiến chế Vui mừng và Hy vọng
vừa cho chúng ta biết Giáo hội sống Tin Mừng là thực thể liên đới và làm phần
cùng với toàn thể nhân loại. Nhưng Giáo hội đó là gì ?
Giáo
hội là dân Thiên Chúa biểu lộ hai đặc tính căn bản như Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) xác định : “Dân thiên
sai” và “thân thể Đức Ki-tô”. Là “dân thiên sai”, “Giáo hội đi sâu vào lịch sử
nhân loại” (LG, 9), và là “thân thể Đức Ki-tô” Giáo hội được mời gọi sống hiệp
thông : “Thật vậy, tất cả các chi thể tuy nhiều,
nhưng chỉ tạo thành một thân thể ; cũng thế, các tín hữu hợp thành một thân thể
trong Chúa Kitô (x. 1Cor 12,12)". Hai hình ảnh này của dân Thiên Chúa nói về sức
sống và tính năng động của ơn gọi Ki-tô hữu. Trong việc xây dựng nhiệm thể Chúa
Ki-tô và trong đời sống dân Thiên Chúa, các tín hữu tham dự vào sứ mạng tông đồ
của Giáo hội qua chính ơn gọi Ki-tô hữu.
Phẩm trật Giáo hội không thể làm giảm tính năng động của mọi
thành phần dân Thiên Chúa, đặc biệt là giáo dân, vì bất cứ lý do gì. Công đồng
Va-ti-ca-nô II đã ý thức về điều này trong Sắc
lệnh về Tông đồ Giáo dân (Apostolicam actuositatem) :
“Thánh Công đồng muốn phát động mạnh
mẽ hơn việc tông đồ của dân Thiên Chúa ,
nên chú tâm hướng về các Ki-tô hữu giáo dân, những người có phần riêng biệt và
cần thiết trong sứ mệnh của Giáo hội, như đã được nhắc đến trong những văn kiện
khác. Bởi vì, vốn phát sinh từ ơn gọi làm Ki-tô hữu, việc tông đồ giáo dân
không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo hội. Trong những buổi đầu Giáo hội,
việc tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao ! Chính Thánh Kinh chứng
minh cách phong phú điều đó (x. Cv 11, 19-21; 18, 26; Rm 16,1-16 ; Ph 4, 3).
Thời đại chúng
ta đòi hỏi người giáo dân phải nhiệt thành không kém, nhất là những hoàn cảnh
hiện tại càng đòi hỏi việc tông đồ của họ phải hoàn toàn mạnh mẽ và sâu rộng
hơn. Quả vậy, càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến
triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng
môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến vô hạn, môi trường mà phần lớn chỉ
dành riêng cho họ, mà còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi họ phải đặc biệt lưu tâm
học hỏi. Việc tông đồ này lại càng trở nên khẩn trương hơn, vì sự biệt lập trên
nhiều phương diện của cuộc sống con người như thường thấy, càng gia tăng, đôi
khi gây nên một sự tách biệt với trật tự luân lý và tôn giáo, cũng như tạo ra
một sự nguy hiểm trầm trọng cho đời sống Ki-tô giáo. Hơn nữa, trong những miền
thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo hội
khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác.”
(số 1).
Lời
mở đầu của Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân
trên đây cho chúng ta thấy sứ mạng hoạt động tông đồ giáo dân thuộc căn tính,
được sinh ra từ bí tích Rửa tội, trong cùng “Dân Thiên Chúa”. Trở thành Ki-tô
hữu là tham dự vào việc loan báo Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô đã khởi sự. Quả
vậy, sức sống của Giáo hội là sức sống của dân Thiên Chúa.
Bản chất ơn gọi Ki-tô hữu
Theo
các chuyên gia về Công đồng, cấu trúc của Hiến
chế Tín lý về Giáo Hội chỉ cho chúng ta đâu là điểm thiết yếu của đời sống
Giáo hội. Sau khi nói về “Mầu nhiệm của Giáo hội” (chương I), Hiến chế trình
bày các phần : “Dân Thiên Chúa” (chương II), “Tổ chức phẩm trật Giáo hội” và
“Giáo dân” trong nhiệm thể Chúa Ki-tô. Tính
chất đặc thù của giáo dân là thực thi “phận vụ riêng của mình”, nhưng họ “thực
hiện sứ mệnh của toàn dân Ki-tô giáo trong Giáo hội và trên trần gian”. Đặc
biệt, tất cả được mời gọi nên thánh, được trình bày trong chương trọng tâm
(chương V).
Công đồng viết :
“Chúa Giê-su, thầy dạy và mẫu mực thần linh của mọi
sự trọn lành, đã giảng dạy cho tất cả và cho mỗi một môn đệ, bất luận thuộc lảnh
vực nào, đời sống thánh thiện mà chính Người vừa là Ðấng ban phát vừa là Ðấng
hoàn tất : "Vậy các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên
trời" (Mt 5,48). Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ
bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn cùng hết sức họ (x. Mc 12, 30), và yêu thương nhau như Chúa Ki-tô yêu thương
họ (x. Ga 13, 34; 15, 12). Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong
Chúa Giê-su, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài,
các môn đệ Chúa Ki-tô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực
sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó,
thực sự đã trở nên thánh” (Số 40).
Cứu cánh của đời sống Ki-tô hữu là “trở nên thánh”,
chứ không phải để thực hiện một số mô hình hoạt động khác nhau cách thành công,
cho dù các hoạt động này cần thiết. Nhưng nên thánh là gì ? Đó lại là câu hỏi
lớn khác. Câu trả lời chắc chắn là chúng ta không thể tự đưa ra bất cứ khung “thánh
thiện” nào và việc nên thánh cũng không tùy thuộc ở phẩm chất cá nhân. Những gì
được gọi là thánh chỉ có thể đến từ Thiên Chúa, vì “chỉ có Ngài là Đấng Thánh”
và nhờ lòng thương xót của Ngài mà con người được ơn cứu độ. Trở nên thánh là
đi trên con đường muốn trở nên gần Thiên Chúa hơn, được thể hiện trong việc lựa
chọn sống các hình thức Tin Mừng. Trở nên gần Thiên Chúa trong mối tương quan
“Giao ước”, chứ không phải bằng Ngài. Đọc lại lịch sử Ki-tô giáo, chúng ta thấy
các Ki-tô hữu chọn “mô hình lý tưởng” khác nhau theo từng thời kỳ. Sách Công vụ Tông đồ trình thuật lại việc các
Ki-tô hữu tiên khởi sống Tin Mừng như thế nào : “Các tín hữu chuyên cần nghe
các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh, và cầu nguyện không ngừng. […]. Các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi
sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy
theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí với nhau, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ.
Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng
Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến.” (Cv 2, 42 ; 44-47) Đó là “mô hình lý
tưởng” của đời sống Ki-tô hữu đối với tín hữu tiên khởi. Đến thời kỳ bách hại,
sau thời kỳ các Tông đồ, gương tử đạo trở thành dấu chỉ của sự trung tín hoàn
hảo trong đời sống đức tin. Rồi trong thời kỳ mà Ki-tô giáo trở thành “quốc
giáo”, các Ki-tô hữu được nhiều “đặc quyền đặc lợi”, đời sống đức tin của nhiều
tín hữu trở nên nhạt nhòa, các đan sĩ và tu sĩ trở thành gương mẫu cho đời sống
Ki-tô trung thành. Đến hôm nay, những gương mặt Ki-tô hữu khác trở thành biểu
tượng của đời sống đức tin sâu xa : hy sinh mạng sống vì bạn tù, sống trọn vẹn với
người nghèo, biểu lộ tiếng nói của công lý và hòa bình…. Thật vậy, các gương
mẫu đức tin “thánh thiện” nơi đời sống của Giáo hội phong phú và đa dạng.
Tóm lại
Dân Thiên Chúa nói cho chúng ta về viễn cảnh mà sách
Khải Huyền của thánh Gio-an loan báo : “Kìa một đoàn người thật đông không tài
nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9). Đây
là hình ảnh Nước Thiên Chúa, nơi đó các công dân là “những người đã giặt áo
mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 9) : họ đã để cho Lời Chúa biến đổi cuộc đời
và tình yêu của Ngài lôi cuốn.
Trần Văn
Khuê, aa