Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

ĐÀN ÁP CHÍNH TRỊ THÁCH THỨC NỀN NHÂN BẢN


Từ cái nhìn xã hội học, cộng đồng xã hội loài người từng bước phát triển thông qua tiến trình hoàn thiện hệ thống luật. Nó là sự đảm bảo cho đời sống chung : kiềm chế bạo lực, giải quyết xung đột và thăng tiến điều tốt chung. Luật vì thế tự bản chất là tập hợp những điều quy định được hình thành từ thương thảo và bàn luận.

Việc hình thành các điều luật được thực hiện trong tiến trình thời gian và không gian. Chúng không thể là sự ban bố từ trên xuống. Luật là biểu tượng của nền dân chủ vì nó là điều được thiết lập chung. Trong thời hiện đại chúng ta, luật được làm từ cơ quan lập pháp (cơ quan thẩm quyền đại diện cho nhân dân), được thông qua cơ quan chức năng như quốc hội hay hạ viện (cơ quan đại diện nhân dân phổ quát), và thậm chí được trưng cầu dân ý. Tiến trình thực hiện “rút gọn” này nhằm giảm thiểu tính phức tạp hay sự bất khả thể trong việc tham dự soạn thảo luật cách trực tiếp của toàn dân, đồng thời đảm bảo tính khách quan và dân chủ.

Người lãnh đạo chịu chi phối bởi điều luật vì đó là quy định chung. Không có giai cấp lãnh đạo cũng như đảng lãnh đạo, mà chỉ có người lãnh đạo được quy định theo luật pháp. Mác nói tới giai cấp công nhân và đảng cộng sản được sinh ra làm đại diện cho gia cấp này trong bối cảnh làm cách mạng chống lại sự “bóc lột” của các ông chủ ở thời kỳ phát triển công nghiệp rồm rộ tại châu Âu vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ông đã không nói gì tiếp sau đó, nghĩa là những người làm cách mạng sẽ phải làm gì sau cuộc cách mạng. Nguyên Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI trong thông điệp “Về niềm hy vọng Ki-tô giáo” nói : chính vì điều đó mà tại Liên-xô người ta phải sáng chế ra một thứ thuật ngữ mới : “thời kỳ quá độ”. Chính bởi vì giai cấp công nhân làm cách mạng nhưng lại không được tiên định để lãnh đạo cách tập thể ! Hậu duệ của Mác tại một số nước cộng sản cố níu kéo tư tưởng của Mác ; tuy nhiên, người ta càng níu kéo thì càng làm cho “triết lý” của ông đi sai lẫn về lý thuyết và thực tiễn. Cần trả lại ông về với lịch sử riêng ! Lịch sử thế giới cho thấy sự thịnh vượng hay sụp đổ của quốc gia gắn liền với tài năng hay bất tài của người lãnh đạo xuất thân từ một dân tộc. Không tồn tại “gia cấp tiên tiến” lãnh đạo trong lịch sử nhân loại.

Mọi đàn áp chính trị đều đi ngược lại tiến trình phát triển trên đây. Nó thách thức nền nhân bản thế giới. Không có bất cứ cá nhân hay tổ chức riêng lẽ và đặc biệt nào có thể nhân danh điều gì để áp đặt hay đàn áp người khác, ngay cả tại chính phần đất mình. Tất cả khởi đi từ nền tảng “quy ước”, được trình bày trong Hiến pháp hợp pháp hay văn bản hiệp ước chung khác. Dân chủ không phải là lý thuyết cũng không phải thuần túy tư tưởng chính trị. Nó là nền nhân bản. Ai sợ dân chủ và đàn áp dân chủ là chống lại con người.

Trần Văn Khuê



Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

SỰ SỐNG TRÀN ĐẦY


Ai đã từng có dịp tới Lộ Đức, miền Nam nước Pháp, đặc biệt vào những dịp đại lễ như Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15-08), ắt hẳn phải bị đánh động bởi bầu khí và tâm tình cầu nguyện của khách hành hương nơi đây. Là bệnh nhân hay người khỏe mạnh, già hay trẻ, họ đến với Đức Mẹ Lộ Đức với biết bao tâm tình và ân nghĩa. Tâm tình của người đi tìm nguồn sức mạnh tinh thần và thể chất nơi Đấng mà họ tín thác ; ân nghĩa của người biết ơn : nhận ra ân huệ của Thiên Chúa qua sự chuyển cầu của Đức Ma-ri-a. Lộ Đức trở thành điểm hẹn linh thiêng của biết bao nhiều người khắp năm Châu mà Đức Ma-ri-a là nhịp cầu nối của trái tim.

Nhìn dòng người đến với Đức Ma-ri-a tại hang đá Lộ Đức, từ sáng sớm cho tới chiều tàn và trong đêm khuya thanh vắng, những ngọn nến lung linh như cảm xúc của triệu con tim, ta thấy nơi đây sự sống tràn đầy. Những bệnh hoạn và tật nguyền con người không thể làm lu mờ vẽ rạng rỡ sâu thẳm nơi con người tìm kiếm Đấng linh thiêng và siêu việt. Sự rạng rỡ này đến từ Đấng mà họ yêu mến.

Lộ Đức trở thành biểu tượng của thế giới đại đồng, nơi con người sống chiều kích hiệp thông và liên đới cách đặc biệt qua đời sống cầu nguyện, phục vụ và tiếp nhận. Không phải nhờ “cơ chế chính trị” và “hệ thống pháp lý” mà con người được được sống sung mãn, nhưng nhờ đời sống tâm linh và tình yêu trong phục vụ, tiếp nhận và chia sẻ. Khủng hoảng chính trị trên toàn thế giới hôm nay và đặc biệt tại một số vùng, miền hay quốc gia, cách thức và hiệu quả của việc điều chế bạo lực xã hội đặt ra cho chúng ta vấn đề chiều kích tinh thần nơi cộng đoàn nhân loại được điều hành bởi hệ thống chính trị vừa thuần túy thực dụng và không tưởng.

Con số hàng trăm ngàn lượt người trong năm đến với vùng đất nhỏ bé Lộ Đức, nơi mang tên Đức Ma-ri-a : Đức Mẹ Lộ Đức, giúp chúng ta hiểu hơn sự sống chỉ thực sự tràn đầy nơi Thiên Chúa. Con người vẫn mãi khắc khoải tìm kiếm những gì chân thật và lâu biền nơi Ngài như kinh nghiệm của thánh Âu-gus-ti-nô : “Tâm hồn con luôn khắc khoải tìm kiếm cho tới khi được yên nghỉ trong Ngài”.



Trần Văn Khuê, aa


Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

GIÁO HỘI MÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ MONG MUỐN

Tôi xin giới thiệu cùng các bạn và quý vị bài viết của ISABELLE DE GAULMYN, MARTINE DE SAUTO ET AGNÈS CHARETON, phóng viên của tờ nhật báo Công giáo La Croix : “L’Eglise que veut le pape François”, ngày 30 tháng 07 năm 2013.


Giáo Hội đồng hành

Từ lúc đặt chân tới Bra-xin, ngày 21 tháng 07, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô trau chuốt cách thức chào các giám mục thuộc những “Giáo hội đặc biệt”. Cách thể hiện này mang ý nghĩa như ngài đến với tư cách Giám mục thành Rô-ma, được mời đến trong giáo phận của các giám mục khác, không giống như vai trò người đứng đầu của Giáo Hội hoàn vũ đến để giải quyết “công việc”. Ngài chọn cách gọi “anh em” giám mục đối với các giám mục Bra-xin, cũng như tất cả giám mục thuộc châu Mỹ La-tinh. Cách gọi này nhấn mạnh chiều kích đối thoại hơn là diễn từ mang nghĩa ex-cathedra (huấn quyền đặc biệt của giáo hoàng). Bằng chứng là ngài lắng nghe các chứng từ, chất vấn và đề nghị đến từ các giám mục.

Thái độ này phản chiếu quan điểm về quản trị Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô từ lúc ngài lên ngôi. Mặt khác, giáo hoàng được Công đồng Va-ti-ca-nô II, trong Hiến chế Ánh sáng Muôn dân (Lumen Gentium), định nghĩa là người “đứng đầu” ở giữa anh em giám mục khác : ngài giữ vị trí hàng đầu trong giám mục đoàn – đảm nhận chung việc quản trị Giáo Hội. Giáo hoàng không tự ý quyết định cách độc đoán.

Theo nghĩa “đoàn”, Giáo Hội là nơi thảo luận và quyết định chung. Tại Rio, Đức Giáo Hoàng mong muốn cách rõ ràng tính cộng đoàn được biểu lộ ở cấp bậc hội đồng giám mục quốc gia hay châu lục, các cấp miền có thẩm quyền quyết định. Quan điểm này hình như không đồng nhất với các vị tiền nhiệm vì lo ngại làm chồng chéo vai trò giám mục và giáo hoàng.

Tính cộng đoàn còn mang nghĩa làm việc chung với nhau. Nhớ lại phương pháp làm việc của khóa họp hội đồng giám mục Aparecida vào năm 2007, Đức Giáo Hoàng truyền lại kinh nghiệm cho các giám mục châu Mỹ La-tinh : không soạn thảo trước các tài liệu qua đó người ta sẽ rà xét lại, nhưng các văn bản được hình thành theo tiến trình làm việc và thảo luận chung, “từ đúc kết về những quan tâm khác nhau của các mục tử”. Đó là cách mà Đức Giáo Hoàng đang dần thực hiện tại Rô-ma : thiết lập nhóm các giám mục làm việc chung.

Trong đường hướng này, Đức Giáo Hoàng yêu cầu “tính cộng đoàn” được thể hiện ở mọi cấp độ của Giáo Hội : hội đồng tư vấn giáo phận, giáo xứ, trong lãnh vực mục vụ cũng như kinh tế. Hội đồng tư vấn phải trở thành nơi “tham dự của giáo dân trong vai trò tham vấn, tổ chức và hoạch định mục vụ”. Ngài thừa nhận : “Tôi tin rằng chúng ta đang đi sau trong vấn đề này”.

Dưới cái nhìn của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, tính cộng đoàn tự bản chất không phải là nguyên lý, nhưng là điều kiện trong công cuộc loan báo Tin Mừng : tổ chức Giáo Hội phải phục vụ “dân Thiên Chúa trong tổng thể”. Không phải với các cơ cấu mà Giáo Hội đảm bảo sự hiệp thông giữa mọi thành phần. Sứ vụ mới là yếu tố hàng đầu : các “viên chức mục vụ” của Giáo Hội và tín hữu nói chung phải cảm thức “thuộc về Giáo Hội”, đồng hóa với Giáo Hội và làm cho Giáo Hội trở nên gần gũi hơn với những ai xa rời Giáo Hội.

Giáo Hội ít giáo điều hơn

Trong bài diễn văn đọc tại “comité de coordination du Conseil épiscopal latino-américain” (Ủy ban điều phối Hội đồng tư vấn giám mục châu Mỹ La-tinh), ngày 27 tháng 07, Đức Giáo Hoàng cảnh báo nguy cơ đe dọa “môn đệ truyền giáo” trong công cuộc loan báo Tin Mừng.

Nguy cơ trước tiên là “tư tưởng hóa” thông điệp Tin Mừng dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngài nêu lên cách đặc biệt nguy cơ “rút gọn mang chiều kích xã hội học” : “tham vọng chú giải theo cái nhìn khoa học xã hội” ; “tư tưởng hóa chiều kích tâm lý” : rút ngắn sự gặp gỡ với Đức Giê-su và tiến trình của cuộc gặp gỡ này về tự nhận thức ; “đề nghị mang tính duy lý trí” : đưa tới “vấn đề tranh cãi về thái độ mục vụ” ; và cuối cùng, giải pháp mang màu sắc của phái Pélage : nhìn lại phía sau và tìm cách lấy lại quá khứ đã qua đi, thái độ “mang tính tĩnh học”. Còn hai thái độ khác đe dọa Giáo Hội : chủ nghĩa chức năng, tìm kiếm trước hết kết quả cuối cùng, “quan tâm tới lộ trình hơn là thực tế của con đường đi” và chủ nghĩa giáo sĩ.

Thomas Guyedier, Giám đốc trung tâm nghiên cứu thần học Caen, nhận định : “Những trình bày của Đức Giáo Hoàng về khuynh hướng tư tưởng hóa thông điệp Tin Mừng rất phổ biến, mời gọi chúng ta đọc lại cách làm mục vụ với sự cảnh giác và kỹ lưỡng. Mỗi khuynh hướng tư tưởng hóa được nêu lên tương ứng với khuynh hướng của từng thế hệ, và việc tránh rơi vào một trong những khuynh hướng trên cũng là cách để làm hòa hợp các thế hệ. Đức Giáo Hoàng chỉ điểm cách đặc biệt thực tế hầu như có mặt khắp nơi trong các giáo phận chúng ta hôm nay, liên hệ đặc biệt với thế hệ trung gian chịu ảnh hưởng bởi trào lưu phong trào đặc sủng mới, khuynh hướng duy tâm linh. Viện cớ để tránh sai lầm mà thế hệ trước đây để một bên chiều kích tâm linh trong đời sống dấn thân hoàn toàn bị nhấn chìm bởi lịch sử, nguy cơ hôm nay là bỏ rơi mối tương quan với thế giới trong đời sống Ki-tô hữu tách lìa những thực tại kinh tế và xã hội. Hôm nay chúng ta có khuynh hướng phát triển thứ mục vụ kỷ luật, chứ không phải là truyền giáo, bỏ qua ý nghĩa theo Đức Ki-tô không chỉ ưu tư về nhà nguyện, nhưng còn và trên hết trong việc phục vụ nhân phẩm trong lòng xã hội, chủ đề được khai triển trong Thông điệp Ánh sáng Đức tin (Lumen fidei).

Theo nhà thần học này, vấn đề việc làm, được Đức Giáo Hoàng nêu lên với các bạn trẻ tại Rio, là lãnh vực trung tâm. “Từ đây, đời sống Giáo Hội, được thúc đẩy bởi lý tưởng Hoạt động Công giáo, dấn thân hoàn toàn trọn vẹn trong lãnh vực này. Hôm nay, ngay cả khi một số nhóm, phong trào mang nơi mình ưu tư đi vào thế giới, nhưng ghi nhận cho thấy chúng ta có khuynh hướng đi ra khỏi những vấn đề nhân sinh, để lợi ích “gặp gỡ Đức Giê-su Ki-tô” được trải rộng trong công việc tông đồ mà Công đồng Va-ti-ca-nô II nói tới. Chúng ta trở thành chuyên gia trong nguyên cứu, trong nội quan, nhưng làm sao chúng ta có thể chắp nối với thế giới lao động ?”

Giáo Hội cởi mở với từng người

Không ngại sử dụng từ “quyến rũ” để nói trước các giám mục Bra-xin hay thành ngữ “khôn lanh Tin Mừng” trước toàn dân châu Mỹ La-tinh, Đức Giá Hoàng Phan-xi-cô biện hộ cho một Giáo Hội “mục vụ” hơn, biết đón nhận hơn là phán xét như trong vấn đề đồng tính mà ngài đã trả lời cho giới báo chí trên đường từ Bra-xin về Rô-ma. Viễn cảnh mục vụ mang tư tưởng của thánh I-nha-xi-ô, nghĩa là đến với con người trong hoàn cảnh mà họ đang sống chứ không phải từ thứ luân lý tiên nghiệm. Đó là những gì mà ngài đã trình bày : “cuộc cách mạng của tình thương mến”.

Nền tảng của thái độ này là “lòng thuơng xót”, một trong những từ mà Đức Giáo Hoàng thường hay sử dụng từ lúc lên ngôi. Giáo Hội không phải là cơ quan phán xét và kỷ luật. Ngài đối lập Giáo Hội của lòng thương xót với Giáo Hội “kiểm soát”, biện hộ cho “Giáo Hội tuyên tín, chứ không phải Giáo Hội rà xét”.

Giáo Hội phải lưu tâm tới những “vấn đề phức hợp nảy sinh” và biết tạo nên nơi và cơ hội biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa. Điều đó đòi buộc phải đi trước con người và “không sợ ra đi trong đêm tối” của con người đương đại, “giao thoa con đường của họ”, đối thoại với họ, đi tới những “vành đai hiện sinh”.

Đối với Đức Giáo Hoàng, nhiều tín hữu rời bỏ Giáo Hội Công giáo vì Giáo Hội không biết bắt kịp họ, nơi họ sinh sống. “Khuôn khổ của Đại Giáo Hội đối với họ là quá lớn”. Chính vì thế mà họ bị lôi cuốn bởi phong trào thánh linh của Giáo Hội Tin lành.

Đức Giáo Hoàng nhắc lại trước Ủy ban điều phối Hội đồng tư vấn giám mục châu Mỹ La-timh : “Khung cảnh và tổ chức đa dạng. Ví dụ : trong cùng một thành phố tồn tại các cơ cấu khác nhau hình thành những thành phố khác nhau. […]. Thiên Chúa làm phần trong những sự khác biệt này : cần phải biết khám phá ra Ngài nhằm có thể loan báo Ngài trong mọi nền văn hóa, nơi những thực tại và ngôn ngữ khác nhau”.

Tóm lại, Đức Giáo Hoàng mong muốn Giáo Hội “có khả năng vượt lên trên chỉ việc lắng nghe, nhưng còn biết đồng hành khi trở thành bạn đồng hành của người khác”. Bởi lẽ, Thiên Chúa mạc khải trong lịch sử là Thiên Chúa “gần gũi” với dân, và “đến gặp gỡ dân của Ngài”. Chứ không phải là thứ “mục vụ quy tắc, chỉ biết đặt nặng nguyên lý, chỉ đạo, quy trình tổ chức”.

Giáo Hội nghèo khó và nữ tỳ

Đức Giáo Hoàng nhắc lại trước các bạn trẻ trên toàn thế giới và các giám mục Bra-xin tại Rio những gì mà ngài đã phát biểu vào ngày 16 tháng 03 năm 2013 : “Tôi mong muốn có một Giáo Hội nghèo khó và cho người nghèo”.

Một Giáo Hội nghèo khó không giống như tổ chứ ONG (tổ chức phi chính phủ), nhưng có “khả năng đốt nóng con tim”. Quả thật, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, giáo dục, y tế, ổn định xã hội là “điều cấp thiết của người Bra-xin”, và về vấn đề này Giáo Hội phải cho làm cho người khác nghe tiếng nói của mình. Tuy nhiên, “để đáp trả cách phù hợp những thách đố này, các giải pháp kỹ thuật không đủ, còn phải nhìn thấy con người với tự do và giá trị của nó”.

Đối với cha Philippe Kloeckner, nguyên đặc trách phần châu Mỹ La-tinh của Hội đồng Giám mục Pháp, Đức Giáo Hoàng qua đó cho thấy “ngài không muốn Giáo Hội là cơ quan làm việc cho tổ chức của mình, nhưng phải phục vụ Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng”.

Cũng trong diễn văn đọc tại Ủy ban điều phối Hội đồng tư vấn giám mục châu Mỹ La-timh, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đả kích “tâm lý hoàng tử” của một số giám mục và nhắc lại vai trò của mục tử không phải là làm “thầy”, nhưng người “hướng dẫn”. Các giám mục phải biết yêu mến sự “nghèo khó”, “nghèo khó nội tâm trong tinh thần tự do trước Thiên Chúa cũng như nghèo khó bên ngoài trong đời sống giản dị và khắc khổ”.

Đối với Elena Lasida, thuộc Đại học Công giáo Paris, đặc trách về Ủy ban Công lý và Hòa bình : “Ý tưởng về Giáo Hội nghèo khó vượt lên trên tính đơn giản về vật chất”. Giáo Hội phải có khả năng “đi vào trong mối tương quan trao đổi và trở thành bạn đồng hành của người khác”. Đối diện với sự nghèo đói, “Giáo Hội không thể đưa ra tất cả mọi giải pháp có sẵn”.

Giáo Hội lội ngược dòng

“Cha yêu cầu chúng con trở thành nhà cách mạng, lội ngược dòng. Để làm điều đó, cha kêu gọi chúng con đứng lên chống lại thứ văn hóa của cái tạm thời, thứ văn hóa trong sâu xa của nó cho rằng chúng con không có khả năng đảm nhận trách nhiệm, không có khả năng yêu thương thật sự…”. Lời kêu gọi này được gửi đến tình nguyện viên của Đại hội giới trẻ tại Rio. Đối với triết gia Guy Coq, lời “mang tính Tin Mừng cách sâu xa” của Đức Giáo Hoàng trên đây mô tả hình ảnh Ki-tô hữu có khả năng “cự tuyệt” mọi thứ “chủ nghĩa theo phong tục và tập quán”. “Trở thành nhà cách mạng không có nghĩa là phá hủy tất cả. Đó là khả năng chú tâm tới các trào lưu diễn ra trên toàn thế giới, cũng như chúng đang xuyên qua đời sống chúng ta. Chứng tỏ khả năng dấn thân sâu xa và đi ra khỏi thứ văn hóa của cái nơi đây và ngay bây giờ để tìm kiếm ý nghĩa của lịch sử nhân loại và ơn cứu độ”. Lời kêu gọi trở thành nhà cách mạng vượt lên trên ơn gọi cá nhân của từng người. Đức Giáo Hoàng nhắc lại rằng “nó cần phải biến đổi thế giới cách triệt để”. Chúng ta nhận thấy điều đó khi ngài tố giác quyền tuyệt đối của tài chính. Ngôn sứ là người muốn đưa con người ra khỏi triền dốc thảm hại tập thể trong đó họ bị giam hãm. Trong nghĩa này, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô mang nơi mình lời “ngôn sứ” và mang lại ý nghĩa của việc dấn thân cụ thể và đạo đức. Ngài không cho rằng sự đoạn tuyệt là mục đích tối hậu. Ngài tin khả năng hình dung ra một thế giới khác có thể. Ngài lấy lại cái tinh hoa của thần học giải phóng : Ki-tô hữu tìm thấy nơi Tin Mừng đòn bẩy để biến đổi thế giới. Những gì chúng ta tìm thấy nơi vị Giáo Hoàng này không phải là diễn từ mang tính giáo hóa (luân lý), không đóng khung lại trong quan điểm giáo điều hay sơ đồ được thiết lập trước, nhưng là hy vọng.


Trần Văn Khuê, aa, lược dịch