Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA

Tại trường đảng cao cấp Nico Lopez, trong chuyến công du Cu-ba vào tháng 04 vừa qua (2012), ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng CSVN, đã đọc một bài diễn văn dài trình bày về chủ nghĩa xã hội. Đó là một bài diễn văn với cung giọng hùng hồn, đưa chủ nghĩa xã hội bay xa so với chủ nghĩa tư bản.
Bài diễn văn này chứa đựng nhiều yếu tố khó hiểu. Một trong số điều khó hiểu đó ẩn chứa nơi đoạn sau đây : 
“Nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn.”
Trước hết, sự khó hiểu về mặt ngôn ngữ. Như thế nào gọi là “nền văn hóa tiên tiến” ? Người ta thường nói : nền công nghiệp tiên tiến, nghĩa là một nền công nghiệp phát triển ở bậc nhất với những áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại hay tiên tiến. Người ta chỉ nói về một nền văn hóa như : đặc thù, đặc sắc, phong phú, đa dạng. Quả thật, đưa cái nhìn “duy vật” vào văn hóa sẽ làm mất đi tính chất văn hóa.
Một điểm khác về nền văn hóa Việt Nam : “một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng”. Không biết “nền văn hóa thống nhất” có ý nghĩa gì theo trình bày của ông Nguyễn Phú Trọng ? Có phải cái làm nên “nền văn hóa thống nhất” là chủ nghĩa Mác – Lê và “tư tưởng Hồ Chí Minh” như trong câu tiếp theo mà ông trình bày : “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.” Nếu đúng như vậy thì trước khi chủ nghĩa Mác-Lê du nhập Việt Nam và “tư tưởng Hồ Chí Minh” phát sinh thì nền văn hóa Việt Nam chỉ là một mớ giá trị lộn xộn và sau này nếu như chủ nghĩa này biến mất thì nền văn hóa Việt Nam sẽ có nguy cơ bị đổ vỡ !
Tiếp đến, sự khó hiểu từ lý thuyết tới thực tiễn : “Nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn.” Trong thực tế không thể phủ nhận, những phẩm chất được nêu lên trên đây chỉ là lý thuyết. Chúng ta chỉ cần nêu ra một số rối rắm trong đời sống xã hội để minh chứng cho điều đó :
-          Văn hóa an toàn thực phẩm
-          Văn hóa đi đường
-          Văn hóa trong việc bảo vệ công ích
-          Văn hóa về công lý và hòa bình
-          Văn hóa về lòng tự trọng
-          Văn hóa trong lãnh vực hoạt động chính trị
-          Văn hóa trong lãnh vực đời sống tín ngưỡng (tôn trọng tự do tín ngưỡng)
Trên đây là những vấn đề mà chúng ta bắt gặp trong thực tế và cũng được bàn luận mỗi ngày một nhiều hơn trong xã hội Việt Nam hôm nay, qua các phương tiện truyền thông khác nhau. Nhiều người có tâm huyết với vận mệnh của Đất nước vẫn đi tìm câu trả lời cho những vấn đề trên. Tính chất sống động và thực của nền văn hóa không ở nơi những lời khẳng định hoa mỹ vô nghĩa, nhưng ở nơi đời sống của những người trong cùng một xã hội. Từ lý thuyết tới thực tiễn là một cuộc hành trình cần sự biến đổi về nhận thức, tư duy và ý chí. Khi xã hội chưa có thể thoát khỏi một tư tưởng cố hữu không còn hợp thời thì không thể có được một nền văn hóa “tiến bộ và nhân văn”.
Trần Văn Khuê, aa

Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2012

VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

Xin gửi tới quý độc giả đoạn trích từ cuốn sách : NHỮNG ĐIỂM TỰA LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO

“…. Trong số những vấn đề được quan tâm nhiều nhất đó là nền giáo dục mất định hướng và ảnh hưởng của chủ thuyết vô thần. Đây là những thực trạng nghiêm trọng của xã hội Việt Nam đương thời. Hai yếu tố này xem chừng mang tính “biện chứng” với nhau : một nền giáo dục mất định hướng được xây dựng trên chủ thuyết vô thần và chủ thuyết vô thần xây dựng nền giáo dục chống giáo dục.

Trước hết, nền giáo dục mất định hướng. Một trong những vấn đề xã hội hiện nay được nhiều tầng lớp xã hội quan tâm là nền giáo dục mất định hướng của Việt Nam. Hệ thống giáo dục từ tiểu học tới đại học đã nhiều lần được cải cách, nhưng nhiều người nhìn nhận có nhiều bất ổn trong hệ thống giáo dục của nước nhà. Trong số những người lên tiếng một cách chính thức và công khai về những vấn nạn giáo dục có các nhà cách mạng, giáo sư, nhà văn…. Trong cuốn Những vấn đề giáo dục hiện nay, do nhà xuất bản Tri Thức phát hành 2007, tập hợp những gương mặt này. Chúng ta chú ý trước tiên tới những nhận xét của Đại tướng Võ Nguyên Giáp : “Nền giáo dục và đào tạo của nước nhà vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, từ việc xác định quan điểm và mục tiêu giáo dục đào tạo, xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp, đội ngũ thầy giáo, hệ thống tổ chức cho đến công tác quản lý”[1]. Những nhận định này không gay gắt nhưng bộc lộ nguyên nhân sâu xa dẫn đến những “bất cập” của nền giáo dục Việt Nam : “việc xác định quan điểm và mục tiêu giáo dục đào tạo”. Nhà văn Nguyên Ngọc nói về sự mất định hướng của nền giáo dục Việt Nam là việc xác định sai “triết lý giáo dục”. Đối với nhà văn này, “nguyên nhân đầu tiên, sai lầm đầu tiên và bao trùm là ở chính vấn đề quan trọng nhất, cơ bản nhất của giáo dục : ở triết lý giáo dục. Nói nôm na ra là chúng ta định xây dựng và thực hiện nền giáo dục này để làm gì ? […]. Thật vậy, đang có vấn đề, có vấn đề lớn ở ngay câu hỏi cơ bản : bằng nền giáo dục này, chúng ta đang muốn đào tạo nên những con người như thế nào đây ? Chúng ta định đào tạo nên những con người tự do, biết suy nghĩ và có suy nghĩ độc lập, từ đó là những con người sáng tạo, cho một xã hội tự do và sáng tạo, hay đào tạo nên những con người chỉ biết chấp hành, vâng lời, phục tùng, hết sức dễ bảo, cho một xã hội trong đó mọi sự đều được chỉ huy tập trung răm rắp, một xã hội trong đó có ai đấy, một lực lượng hay một tổ chức, một người hay một số người nào đấy suy nghĩ sẵn mọi điều cho mọi người và mọi người cứ thế học thuộc lòng và làm theo”[2]. Còn nữa, khi bàn về nội dung chương trình triết học được giảng dạy tại các trường, nhà văn Nguyên Ngọc viết : “Như chúng ta đều biết, những môn học thuộc phần gọi là chính trị, gồm Triết học Mác Lê-nin, Chính trị kinh tế học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay chiếm một phần năm thời gian học ở các cấp. Xin nói ngay rằng tôi nghĩ học triết học Mác Lê-nin là cần thiết, các môn học vừa kể trên cũng có thể là cần thiết. Nhưng tại sao, ít nhất là ở cấp đại học, lại không dạy và học triết học nói chung, lịch sử triết học, cả phương Đông lẫn phương Tây, trong đó có triết học Mác Lê-nin. Triết học Mác Lê-nin có thể là đỉnh cao của triết học, nhưng chắc chắn không là triết học duy nhất của nhân loại, cũng không phải là triết học cuối cùng trong lịch sử của nhân loại. Không biết một cách cơ bản lịch sử triết học của nhân loại thì ngay để hiểu chính triết học Mác Lê-nin cũng sẽ là què quặt, cạn cợt. Vả chăng cũng cần phải nói thật rằng cách dạy chủ nghĩa Mác Lê-nin trong các trường của chúng ta hiện nay đúng ra không thật sự là dạy triết học, mà chỉ là dạy chính trị một cách khá thô thiển”[3].

Những nhận định trên đây chắc chắn đáng cho mọi thành phần trong xã hội Việt Nam quan tâm. Quan tâm ở đây không phải bằng thái độ bài xích một nền giáo dục, nhưng cần nhìn nhận một cách khách quan “triết lý” giáo dục hiện tại, nhằm có một hướng đi đúng đắn cho việc giáo dục.

Về phía những người Công Giáo, năm 2009, Câu lạc bộ Phao-lô Nguyễn Văn Bình đã tổ chức một cuộc hội đàm về vấn đề Giáo dục Việt Nam[4]. Các chuyên viên thuyết trình gồm những người Công Giáo và không Công Giáo. Khởi đi từ những nhận định trong cuốn Những vấn đề giáo dục hiện nay. Quan điểm & giải pháp (NXB Tri Thức, 2007), các thuyết trình viên đều có cùng nhận định : nền giáo dục Việt Nam hiện nay yếu kém, bất cập, mất định hướng, thiếu triết lý giáo duc…. Thậm chí nhà văn Nguyên Ngọc còn cho rằng : “Vào khoảng 1957-58, vì những quan niệm sai lầm, chúng ta đã phá tan nền đại học đó (một nền đại học rất đàng hoàng, được xếp cấp bậc so với các nước khác). Từ đó về sau có thể nói không thật sự có đại học nữa, bản chất của đại học đã mai một, như có người nói, chỉ còn phổ thông cấp bốn. Từ hiện tượng đại học xuống cấp đã lan dần xuống, đến toàn bộ nền giáo dục”[5]. Đâu là những nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng của nền giáo dục hiện nay và gây nên những hệ luỵ xã hội nghiêm trọng ? Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, lúc bấy giờ là linh mục Dòng Đa-minh, cho rằng “nguyên nhân cuộc khủng hoảng giáo dục ở nước ta là do cái “triết lý Giáo dục” vừa lạc hậu, vừa mất định hướng”[6]. Trong bài tham luận của mình, nhà văn Nguyên Ngọc cũng chia sẻ nhận định này : “Chúng ta không chỉ đang lạc hậu, mà đang lạc hướng ! Lạc hướng chính là lạc hướng về triết lý giáo dục”[7].

Như vậy, chúng ta có thể hình dung được những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng giáo dục hiện nay : “lạc hậu” và “lạc hướng”. Chúng ta có thể tiếp tục đặt câu hỏi : nền giáo dục “lạc hậu” và “lạc hướng” như thế nào ? Có lẽ những câu hỏi của nhà văn Nguyên Ngọc gợi ý cho chúng ta những câu trả lời về nền giáo dục “lạc hậu” và “lạc hướng” này : “Với nền giáo dục này chúng ta đang định làm gì đây ? Mục đích của nó là gì ? Hoặc cụ thể hơn nữa : với nền giáo dục này chúng ta định đào tạo ra những con người như thế nào ?”[8] 

Tiếp theo những câu hỏi của mình, nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng nền giáo dục này đang “ráo riết đào tạo ra những con người học thuộc lòng”. Hay nói cách khác, giáo dục đào tạo những con người “giáo điều”. Tuy nhiên, ngoài nhận định chính xác này, chúng ta cần phải nhìn nhận một sự thật khác phía sau những chủ trương cải cách giáo dục : mục tiêu của nền giáo dục hiện nay đang muốn đào tạo những con người “vô sản” trong thời kinh tế thị trường và toàn cầu hoá. Đó là cái được gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hơn thế nữa, lý do sâu xa nhất của cuộc khủng hoảng của nền giáo dục hiện nay : nền giáo dục được xây dựng trên chủ thuyết vô thần. Đó là lý do làm cho nền giáo dục mất định hướng. Mất định hướng ở đây không phải là thiếu nhận thức về những ngành khoa học mũi nhọn nhằm phát triển kinh tế mà thiếu những nền tảng giá trị nhằm giáo dục con người toàn diện. Không biết là một cách tình cờ hay chủ ý mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói tới cuộc khủng hoảng giáo dục bằng những cụm từ “xác định quan điểm và mục tiêu giáo dục”, hay như câu hỏi của nhà văn Nguyên Ngọc : “Với nền giáo dục này chúng ta định đào tạo ra những con người như thế nào ?” Một sự trở lại gần đây với những cội nguồn dân tộc như là một nỗ lực nhằm khoẩ lấp khoảng trống vô tận trong lòng dân tộc do chủ thuyết vô thần gây ra, một thứ chủ thuyết mà lúc này người ta không thể dễ dàng vứt bỏ và mong đem lại cái hồn cho dân tộc nói chung và nền giáo dục nói riêng.

Chúng ta đã nói nền giáo dục mất định hướng và chủ thuyết vô thần mang tính “biện chứng” với nhau. Chủ thuyết vô thần ảnh hưởng tiêu cực trên nền giáo dục và kéo theo những hệ luỵ xã hội. Chưa có một đánh giá chính thức nào lượng giá những ảnh hưởng của chủ thuyết vô thần, nhưng phần lớn dân chúng Việt Nam thừa nhận một sự suy thoái đời sống đạo đức, nhân bản trong xã hội Việt Nam. Những tệ nạn xã hội minh chứng cho điều đó : gian lận trong đời sống xã hội cũng như trong lãnh vực giáo dục, tham nhũng, phá huỷ môi trường thiên nhiên, thiếu ý thức về ích lợi và của cải chung, sống thiếu trách nhiệm đối với thế hệ tương lai khi chỉ lo cho lợi ích của mình lúc này và nơi đây …. Đâu là những nguyên nhân ? Có người cho rằng do chiến tranh và nghèo đói nên người dân của mình chưa thể vươn tới đời sống cao thượng hơn. Nhưng cái nghèo có thể làm cho con người mất sự tự trọng và ý thức về những giá trị nhân văn ? Hay chủ thuyết vô thần đã làm xơ cứng nhiều người : con người chỉ tồn tại chứ không phải sống ?

Trong bối cảnh xã hội của các nước Tây phương vào thế kỷ XIX, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển quá nhanh tạo nên một xã hội hoàn toàn khác và làm xuất hiện giai cấp lao động công nghiệp. Nhiều lúc giai cấp này phải sống và làm việc trong những hoàn cảnh khó khăn. Chính trong bối cảnh này, Các Mác đứng lên làm cách mạng và đứng về phía công nhân.  Mác muốn xây dựng một vương quốc lý tưởng trong việc xây dựng con người duy vật vô sản. Sau này Lê-nin tiếp tục theo đuổi xây dựng những con người vô sản vô thần. Họ chiến đấu chống giai cấp, nhưng trong cuộc chiến đấu, họ thiếu nhận thức về cơ cấu cần thiết để vận hành xã hội, thiếu nhận thức về những nền tảng giá trị nhằm xây dựng đời sống xã hội. ĐGH Bê-nê-đíc-tô XVI nhận định về Mác trong thông điệp Spe salvi (Về niềm hy vọng Ki-tô giáo) như sau :

Ông đã chỉ dẫn một cách tường tận phải làm thế nào để lật đổ chế độ hiện hành. Nhưng ông không nói cho chúng ta biết tiếp sau đó phải làm gì. Ông chỉ giả định rằng, với việc trút bỏ tài sản của giai cấp thống trị và với việc lật đổ quyền lực chính trị, với việc xã hội hoá các phương tiện sản xuất thì Gê-ru-sa-lem mới sẽ xuất hiện. Bấy giờ mọi mâu thuẩn sẽ bị xoá sạch, con người và thế giới cuối cùng sẽ tìm lại được chính mình…. Bấy giờ mọi thứ sẽ đi vào con đường đúng đắn, vì tất cả đều thuộc về mọi người và mọi người đều muốn cho ai nấy những điều tốt đẹp. Sau cuộc cách mạng thành công tốt đẹp, Lê-nin phải thấy rằng không tìm được cái gì phải tiếp nối nơi ông thầy của mình. Vâng, ông ta đã nói về thời kỳ quá độ, sự độc tài của giai cấp vô sản là điều cần thiết, nhưng rồi sự độc tài này cũng chóng qua. Chúng ta biết rõ “thời kỳ quá độ” này được phát triển như sau, nhưng thay vì đưa đến một thế giới tốt đẹp, đã để lại một sự tàn phá khủng khiếp. Mác đã không suy nghĩ đến những cơ cấu cần thiết cho thế giới mới – mà thực tế rất cần. Việc ông không nói gì về điều này, cũng hợp lý theo cách lựa chọn của ông. Sự sai lầm của ông càng sâu hơn nữa. Ông đã quên rằng, con người mãi mãi là con người. Ông đã quên con người và quên cả sự tự do của họ. Ông quên rằng, tự do mãi mãi là tự do cả khi dành cho điều xấu. Ông tin rằng, khi kinh tế nằm trong trật tự, thì tất cả đều nằm trong trật tự. Sai lầm đích thực của ông là chủ thuyết duy vật. Con người không phải là sản phẩm của nền tảng kinh tế và cũng không thể cứu con người từ ngoài qua việc thiết lập các điều kiện kinh tế thật thuận lợi [9].

Vấn đề cốt lõi mà ĐGH Bê-nê-đíc-tô XVI chỉ ra : sự mất định hướng phát xuất từ chủ thuyết duy vật. Con người hoàn toàn không được làm từ vật chất ; con người không phải là “sản phẩm của nền tảng kinh tế”. Xác quyết này trả lời cho sự mất định hướng của nền giáo dục Việt Nam và kéo theo những hệ luỵ xã hội. Một nền giáo dục không đặt con người làm trung tâm cũng như không thăng tiến đời sống tinh thần, đạo đức biến những con người trở thành những công cụ, những con rô-bốt. Lỗi không phải từ những người được đào tạo mà đến từ hệ thống giáo dục được định hướng. Tiếp tục tư tưởng của mình, trong thông điệp Caritas in veritate, ĐGH Bê-nê-đíc-tô XVI viết : “Khi Nhà nước đòi hỏi, dạy dỗ hay thiết đặt những hình thức của một chủ nghĩa vô thần thực tiễn, thì Nhà nước đã rút đi sức lực luân lý và tinh thần của các công dân, đó là sức lực tất yếu để dấn thân cho việc phát triển con người trọn vẹn, và ngăn cản họ tiến bước với sức sống mới trong sự dấn thân cho lời đáp thật quảng đại và nhân bản cho tình yêu của Thiên Chúa” (số 29). Đời sống luân lý và tinh thần là sức mạnh nhằm giúp phát triển con người toàn diện cũng như toàn xã hội. Đó là cái hồn của một đất nước. Một đất nước không thể được xây dựng từ những con người vô hồn. Đi tìm cái hồn cho đất nước đó là xây dựng con người có hồn. Hồn ở đây là Trí và Tâm.”

Trần Văn Khuê, aa



[1] Võ Nguyên Giáp, “Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của nước nhà”, trong Những vấn đề giáo dục hiện nay. Quan điểm & giải pháp (nhiều tác giả), NXB Tri Thức, 2007, tr. 11.
[2] Nguyên Ngọc, “Giáo dục ở nước ta hiện nay đi ra bằng con đường nào”, trong Những vấn đề giáo dục hiện nay. Quan điểm & giải pháp (nhiều tác giả), NXB Tri Thức, 2007, tr. 263.
[3] Ibid, tr. 268.
[4] Nguyễn Thái Hợp (chủ biên), Tôn giáo - giáo dục. Một cách tiếp cận, CLB Phao-lô Nguyễn Văn Bình, 2009.
[5] Nguyên Ngọc, “Lạc hướng triết lý giáo dục”, trong Tôn giáo-Giáo dục. Một cách tiếp cận (Nguyễn Thái Hợp, chủ biên), CLB Phao-lô Nguyễn Văn Bình, 2009, tr. 34.
[6] Nguyễn Thái Hợp, “Chung quanh nan đề “Giáo dục””, trong Tôn giáo-Giáo dục. Một cách tiếp cận (Nguyễn Thái Hợp, chủ biên), CLB Phao-lô Nguyễn Văn Bình, 2009, tr. 17.
[7] Nguyên Ngọc, “Lạc hướng triết lý giáo dục”, trong Tôn giáo-Giáo dục. Một cách tiếp cận (Nguyễn Thái Hợp, chủ biên), CLB Phao-lô Nguyễn Văn Bình, 2009, tr. 35.
[8] Ibid, tr. 35.
[9] ĐGH Bê-nê-đíc-tô XVI, Spe Salvi, số 21.

Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

SAO KHUÊ MỪNG SINH NHẬT LẦN THỨ I


XIN CHÂN THÀNH TRI ÂN QUÝ ĐỘC GIẢ ĐÃ ĐỒNG HÀNH

CÙNG SAO KHUE TRONG NĂM QUA.


SAO KHUÊ CẦN TIẾP TỤC ĐƯỢC SỰ CHIA SẺ CỦA QUÝ ĐỘC GIẢ TRONG THỜI GIAN TỚI.
CHÚC QUÝ VỊ MỌI SỰ LÀNH TRONG CUỘC SỐNG !

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

TỪ CÂY THẬP GIÁ TỚI SỰ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Thập giá : một sự ô nhục chống lại con người

Bị kết án đóng đinh trên thập giá là một hình phạt mà người Rô-ma dành cho những tội nhân. Hình phạt này được xem là một sự ô nhục nhất, một nỗi đau đớn nhất được dành cho người phải nhận án phạt. Thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu về điều này trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô : « Điều mà người Do-thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ » (1Cr 1, 23). Quả thật, thập giá không phải là vinh quang mà là một sự ô nhục.

Nếu như thập giá là hình phạt ô nhục nhất dưới thời Đế quốc Rô-ma, những cái chết ô nhục nhất của thế kỷ 20 mà chúng ta phải kể đến là những trại tập trung của Phát-xít Đức, những cuộc diệt chủng của Pôn-pốt, những sự bóp nghẹt sự sống con người của các chế độ độc tài. Khi nhìn lại những sự kiện lịch sử này – những sự kiện đã để lại trong lịch sử nhân loại một vết đen không thể tẩy xóa, và những gì đang diễn ra trong thời đại chúng ta (những cuộc xung đột đẫm máu, những vụ bắt bớ và kết án người vô tội), nhiều người chỉ có thể nói : thật là khủng khiếp, thật là kinh hoàng ! Nhân loại không thể có một lời nào để diễn đạt hết bản chất của chúng, cho dù là lời xin lỗi hay tha thứ. Ai dám nhận lời xin lỗi cho những người đã khuất ? Ai dám nói lời xin lỗi thay cho những kẻ đã gây nên những nỗi kinh hoàng cho những người vô tội ?

Bóng ma của thập giá vẫn còn đè nặng trên đời sống của chúng ta cho tới ngày hôm nay khi mà con người đang đối xử với nhau như những con sói trong cùng một cộng đoàn nhân loại.

Thập giá là một sự ô nhục chống lại con người. Bởi lẽ, những sự đối xử tồi tệ mà con người dành cho nhau không giúp nhân loại thăng tiến và đời sống con người trở thành nhân bản hơn. Ngược lại, chúng hạ thấp giá trị của con người - của kẻ thống trị cũng như của những người bị trị.

Suy tôn Thánh giá là chiêm ngắm « Đấng bị đâm thâu »

Thánh Gio-an viết : « Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực ; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. Lại có lời Kinh Thánh khác : Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu. » (Ga 19, 33-37).

Quả thật, khi suy tôn Thánh giá chúng ta không suy tôn một khúc gỗ hay cổ võ cho sự bạo lực biểu lộ trong án phạt này, nhưng chúng ta chiêm ngắm Đấng tuôn trào « máu cùng nước » từ cạnh sườn của Người.

Từ việc chiêm ngắm Đấng bị đâm thâu, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đã tìm thấy ý tưởng cho thông điệp đầu tiên của mình : Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình yêu). Ngài viết : « Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giê-su, mà thánh Gio-an nói đến giúp chúng ta hiểu khởi điểm của Thông điệp này : « Thiên Chúa là Tình yêu » (1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó, có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Ki-tô hữu tìm được con đường để sống và để yêu. » (Deus caritas est, số 12)

Sự kiện phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô

Sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô là nền tảng đức tin của người Ki-tô hữu

Niềm vui phục sinh ! Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta khởi đầu từ tạo dựng được biểu lộ trong mầu nhiệm Thập giá, trong sự đau khổ và sự tự hạ của Chúa Giê-su như trong thư của thánh Phao-lô gửi giáo đoàn Phi-lip-phê. Tuy nhiên, sự ô nhục của thứ sáu Tuần thánh đã được thay thế bằng niềm vui của sự phục sinh.

Sự phục sinh của Đức Ki-tô là nền tảng đức tin của người Ki-tô hữu. Thánh Phao-lô khẳng định : « Nếu Đức Ki-tô không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng » (1Cr 15,14). Nếu Đức Ki-tô không phục sinh, câu chuyện về Người chắc chắn sẽ không có hậu và chấm dứt tại đồi Gôn-gô-ta ; nếu Đức Ki-tô không phục sinh, đức tin của chúng ta thật hảo huyền, vô nghĩa, không đem lại cho đời sống con người bất cứ điều gì.

Sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô là dấu chỉ của sự chiến thắng đối với điều dữ, tình yêu chiến thắng sự hận thù, sự sống mạnh hơn sự chết. Điều dữ, sự hận thù, sự chết không thể bị khuất phục bằng chính nó, nhưng bằng sự thiện, tình yêu và sự sống. Điều này không ngừng giúp cho chúng ta hy vọng để xây dựng thế giới, xã hội, cộng đoàn, bằng những nổ sự, những hy sinh và bằng tình yêu tự hiến.

Tin vào sự phục sinh của chúng ta

Sự phục sinh của Đức Ki-tô là nền tảng đức tin của người Ki-tô hữu, nó còn cho phép họ tin vào sự phục sinh của chính mình. Về vấn đề sự phục sinh của con người thánh Phao-lô đã mô tả trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô (1Cr 15,35-44) bằng hình ảnh của hạt giống được gieo vào lòng đất : hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và đơm hoa kết trái. Chính Đức Giê-su cũng đã sử dụng hình ảnh này để nói về cái chết của Người (x. Ga 12,24).

Thật vậy, hình ảnh này nói cho chúng ta một cách rất mạnh mẽ và đầy ý nghĩa : dù thân xác yếu đuối, nhỏ bé, mỏng dòn, khiếm khuyết…, nhưng nó sẽ được biến đổi hoàn toàn khác và trở nên đầy sức sống qua ân huệ phục sinh : « Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt ; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí » (1Cr 15,42-44).

Lời xác tín trên đây của thánh Phao-lô cho phép chúng ta hiểu giá trị lớn lao của thân xác chúng ta. Trong một xã hội mà con người tầm thường hóa thân xác (không tôn trọng thân xác con người) hay tôn sùng thân xác đến nỗi coi thường nó qua những thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa khoái cực, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa duy vật, tin vào sự phục sinh của con người không phải là điều hão huyền, nhưng nó giúp con người thay đổi cách sống, cách suy nghĩ, cách hành xử và cho phép chúng ta xây dựng đời sống con người có ý nghĩa. Trong một xã hội mà nhiều người sống trong sự tuyệt vọng vì đời sống khó khăn, vì những bất lực, vì những bệnh tật, tin vào sự phục sinh mở cho con người một cánh cửa của hy vọng lớn lao. 

Lời kết

Từ thập giá tới phục sinh là con đường của cuộc sống chúng ta. Chúng ta cảm nghiệm rằng trong cuộc sống có những lúc chúng ta chết đi và cũng có những lúc chúng ta cũng đã phục sinh. Chúng ta có nhiều lần chết đi và chúng ta cũng có nhiều lần phục sinh. Sự phục sinh cuối cùng là ngày mà chúng ta được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa muôn đời trên Thiên quốc. Đức Giê-su Ki-tô đã đảm bảo cho chúng ta về niềm hy vọng này qua cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.

HA-LÊ-LUI-A, CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI !
NGƯỜI ĐÃ SỐNG LẠI THẬT !

XIN KÍNH CHÚC QUÝ ĐỘC GIẢ TRÀN ĐẦY NIỀM VUI CỦA CHÚA PHỤC SINH !

Trần Văn Khuê, aa